Sỏi san hô là sỏi chiếm từ 2 đài thận trở lên. Mặc dù tất cả các loại
sỏi đề có thể hình thành sỏi san hô, nhưng 75% sỏi san hô là sỏi hỗn
hợp struvite – carbonate-apatite. Sỏi có tên Struvite là do lấy tên nhà
ngoại giao Nga Baron von Struve, hay cũng được gọi là sỏi 3 phosphate.
Dạng sỏi san hô khác ít gặp hơn là sỏi calcium oxalate và calcium
phosphate.
Ý tưởng cho là nhiễm trùng sinh sỏi không phải là mới, có từ thời
Hippocrate. Năm 1817, Marcet cho là có sự kết hợp giữa sỏi phosphate và
tình trạng nhiễm trùng, nước tiểu kiềm tính và amonia nước tiểu. Mài tới
đầu thế kỷ 20 Brown đề nghị cơ chế là vi khuẩn sinh men urease chịu
trách nhiệm cho tất cả các quá trình đó. Sự phát hiện enzyme này cho
Summer doạt Nobel hóa học năm 1946.
Biểu hiện lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân có sỏi struvite rất đa dạng, nhất là
bệnh nhân có chuyển lưu nước tiểu, phẫu thuật đường tiết niệu, có thông
tiểu, bàng quang thần kinh, trào ngược bàng quang niệu quản hay các bất
thường giải phẫu học khác.
Nhiễm trùng có thể làm cho viêm đài bể thận, thận ứ mủ hay áp-xe
quanh thận. Nhiễm trùng có thể làm đau lưng cổ điển, sốt hay có triệu
chứng đường tiểu dưới. Lưu ý là sỏi san hô cũng có thể không có triệu
chứng ngay cả khi sỏi chiếm tất cả các đài thận, hoặc gây viêm đài bể
thận mủ xanh (xanthogranulomatous pyelonephritis), 25% bệnh nhân không
triệu chứng.
Sỏi san hô gây tỷ lệ tử vong cao nếu không điều trị, lấy bỏ. Có một nghiên cứu Ấn độ cho thấy 90% sỏi san hô là sỏi oxalate.
Làm các xét nghiệm máu căn bản, chức năng đông máu toàn bộ, điện giải
đồ và creatinin máu. Thiếu máu mãn, cần phải đánh giá toàn diện xem có
khả năng truyền máu trong lúc mổ không. Thử nước tiểu và c6áy nước tiểu,
và cho kháng sinh vài ngày trước phẫu thuật. Đánh giá về chuyển hóa của
sỏi, vì 50% sỏi struvite do nhiễm trùng có kèm bất thường chuyển hóa.
Thử nước tiểu 24 giờ tìm oxalate, acid uríc, citrate, phosphate,
magnesium, can-xi. Cùng lúc đó phải thử phosphat, can-xi, acid uríc máu.
Nếu can-xi máu tăng cao thì nên thử lại đồng thời với hoc-mon cận giáp.
Cận lâm sàng
Chụp x-quang bụng, có thể thấy sỏi lớn cỡ nào chiếm bao nhiêu đài thận.
Chụp CT scan có thể thấy giải phẫu của các đài thận, để giúp ích cho
việc lấy sỏi qua da hay có thể tán sỏi ngoài cơ thể sỏi có ra được
không. Theo định nghĩa sỏi san hô là sỏi có từ 2 đài thận trở lên, hay
chiếm tới 80% hệ thống bài tiết trong thận. Đáng giá bằng CT scan dựng
hình 3D có tác dụng giúp ích trong điều trị nhưng mất thời gian và chi
phí.
Chụp xạ hình thận không cần thiết nhưng giá trị nó mang lại lớn, vì
nếu chức năng thận không còn nhiều thì có thể tiến hành cắt thận thay vì
bảo tồn. Gần đây CT scan được dùng để đánh giá độ cứng của sỏi,
Zilberman và CT thấy sỏi struvite có độ cản quang khoảng 900 HU hay ít
hơn. Siêu âm không có cái nhìn toàn cảnh, có thể thấy hình ảnh thận ứ
nước. Còn MRI thì không có vai trò gì.
Điều trị bằng thuốc
Sỏi san hô là sỏi nhiễm trùng. Điều trị kháng sinh để phòng ngừa viêm
đài bể thận cấp và nhiễm trùng hệ thống có thể ức chế vi khuẩn phát
triển. Kháng sinh đôi khi có tác dụng làm nhỏ sỏi, trong lịch sử y văn
có trường hợp dùng kháng sinh làm tan hoàn toàn sỏi.
Thay đổi khẩu phần ăn ít chất can-xi và ít chất béo. Thuốc uống có
tác dụng ức chế men urease như Acetohydroxamic acid (AHA) có tốc độ
bài tiết qua thận cao, thâm nhập vào thành của tế bào vi khuẩn, có tác
dụng hiệp đồng với một số kháng sinh. Có nhiều nghiên cứu thấy AHA có
tác dụng ức chế men urease, cai thiện tình trạng kiềm nước tiểu, cai
thiện tình trạng amoniac nước tiểu, tuy nhiên có tới 20% bệnh nhân có
tác dụng phụ khi sử dụng thuốc này. Những thuốc khác giúp acid hóa nước
tiểu như amonium choloride.
Phẫu thuật
Trong quá khứ thường áp dụng mổ hở cho điều trị sỏi san hô. Hoặc là mổ
xẻ thận ra theo đường vô mạch giống như mở một quyển sách (anatrophic
nephrolithotomy) hoặc xẻ bể thận lấy sỏi (pyelolithotomy). Ngày nay có
nhiều phương pháp thay thế.
Tán sỏi ngoài cơ thể
Tán sỏi ngoài cơ thể áp dụng đầu tiên năm 1982 cũng có thể áp dụng cho
sỏi san hô thận. Sỏi struvite có thể tán vụn bằng tán sỏi ngoài cơ thể
được vì tính chất sỏi có nhiều lớp. Tuy nhiên cần tới 50% các trường hợp
sỏi san hô phải tán lại. Nếu phải tán nhiều lần, thì ưu tiên sỏi bể
thận tán trước. Có tới 40% các trường hợp cần phải mở thận ra da. Nếu mà
cổ đài thận hẹp thì nên kết hợp với lấy sỏi qua da nong đài thận.
Lấy sỏi qua da
Là chọc vào đài bể thận làm đường hầm sau đó nong đường hầm này ra, qua
đó mà có thể lấy sỏi hay tán sỏi. Để tán sỏi có thể sử dụng nhiều nguồn
năng lượng khác nhau, các loại máy soi khác nhau. Sử dụng các máy soi
cứng và mềm.
Nguyên tắc điều trị phẫu thuật
Nguyên tắc là phải lấy hết sỏi, không chừa lại sỏi vụn.
Phải giải thích cho bệnh nhân là cần làm nhiều lần và nhiều phương
pháp khác nhau như tán sỏi ngoài cơ thể, nối soi tán sỏi, lấy sỏi qua da
gọi là sandwich therapy. Cần những phương pháp hỗ trợ khác như thuốc
kháng sinh, AHA hay bơm rửa ống thông thận qua da để sao cho sỏi chậm
tái phát.
.