Hiện nay trong việc dùng thuốc kháng sinh , tại các nhà thuốc, hiệu thuốc, phòng mạch tư đang có hiện tượng lạm dụng các thuốc mới đắt tiền. Ngoài mục đích chữa bệnh, các thuốc này sẽ đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho các nhà kinh doanh nhưng với giá cả cao như vậy người bệnh sẽ phải “gồng lưng” mà chịu trận. Một trong số đó là nhóm thuốc kháng sinh macrolid với nhiều tên biệt dược khác nhau.
Nhóm thuốc macrolid
Về nguyên tắc, thầy thuốc điều trị phải dựa vào kháng sinh đồ, tức là điều trị nhiễm khuẩn dựa vào độ nhạy cảm của kháng sinh đối với vi khuẩn. Tuy nhiên, khi mới nhập viện chưa có kháng sinh đồ thì thầy thuốc sẽ điều trị nhiễm khuẩn dựa vào lâm sàng và kinh nghiệm của mình để chọn kháng sinh. Đặc biệt, tại cơ sở kinh doanh thuốc thường hướng người bệnh đến các loại kháng sinh đắt tiền.
Macrolid là nhóm thuốc kháng sinh có vòng lacton từ 12 - 17 nguyên tử cacbon hay được dùng trong điều trị với tên thuốc gốc rất quen thuộc ra đời từ năm 1952 đó là erythromycin. Hiện nay trên thị trường, nhóm thuốc này có rất nhiều biệt dược dạng uống rất thông dụng để điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp (viêm phổi, viêm phế quản), nhiễm khuẩn da, mô mềm... Gần đây, tình trạng lạm dụng thuốc và dùng thuốc không đúng cách như uống không đủ liều, không đủ thời gian đã làm thuốc này ít nhiều bị một số vi khuẩn kháng lại.
Thuốc được phân bố tốt trong các tổ chức, đặc biệt là xương và dịch phế quản. Đối với các vi khuẩn đã kháng penicillin thì macrolid là nhóm kháng sinh được lựa chọn để thay thế.
Các macrolid tự nhiên được điều chế chủ yếu từ môi trường nuôi cấy vi khuẩn streptomyces. Còn các kháng sinh bán tổng hợp được các nhà bào chế lấy từ macrolid tự nhiên rồi thay đổi một số nhóm thế nhằm khắc phục các nhược điểm của macrolid gốc như: roxithromycin, clarithromycin, azithromycin... Xuất phát từ erythromycin, khi thay đổi nhóm thế, người ta tạo ra được các sản phẩm bền vững hơn trong môi trường acid, nâng cao tính sinh khả dụng (tăng độ hấp thu qua ruột non) và mở rộng phổ tác dụng trên vi khuẩn.
Các kháng sinh nhóm macrolid được chỉ định điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp, nhiễm khuẩn răng miệng, viêm đường tiết niệu, sinh dục, nhiễm khuẩn da... Dạng thuốc hay dùng là viên nén, viên nang để uống. Dạng tiêm chỉ để dùng trong bệnh viện. Cần chú ý nguy cơ tương tác thuốc, đặc biệt với các thuốc kháng histamin.
Các thuốc trong nhóm và lưu ý khi dùng:
Thuốc đầu tiên trong nhóm macrolid là erythromycin, do thời gian bán thải ngắn của erythromycin nên phải uống nhiều lần trong ngày. Vì vậy, sự ra đời của các macrolid bán tổng hợp đã khắc phục được nhược điểm này. Hiện nay trên thị trường đang có các loại như sau:
Roxithromycin (rulid): Hay được dùng vì nguy cơ tương tác thuốc giảm hơn so với erythromycin.
Clarithromycin: Hiện nay cũng rất được ưa chuộng kết hợp với amoxycillin và metronidazol trong phác đồ điều trị loét dạ dày - tá tràng do nhiễm khuẩn Helicobacter Pylori (kết hợp thêm với một thuốc ức chế bơm proton như omeprazol). Ngoài ra, clarithromycin còn được dùng để điều trị cho bệnh nhân AIDS.
Spiramycin (rovamycin): Thuốc chịu đựng được môi trường acid, không độc đối với gan, thời gian bán hủy dài (6 - 8 giờ). Hiện nay trên thị trường có dạng kết hợp với metronidazol (rodogyl) dùng để điều trị nhiễm khuẩn kỵ khí, hay dùng trong nhiễm khuẩn răng hàm mặt.
Azithromycin (zithromax): Thuốc thấm rất nhiều vào mô (trừ dịch não tủy). Thuốc có phổ tác dụng rất rộng và thời gian bán thải dài (hơn 70 giờ) cho nên chỉ cần dùng một lần trong ngày và 3 ngày trong một đợt điều trị.
Nhóm kháng sinh macrolid là dạng thuốc được dùng phổ biến vì đường dùng chủ yếu là đường uống, thuốc được dung nạp tốt, có thể dùng cho phụ nữ có thai và được dùng cho bệnh nhân AIDS để điều trị các nhiễm khuẩn cơ hội. Đây là thuốc có nhiều biệt dược đắt tiền nên các thầy thuốc cần cân nhắc kỹ trước khi sử dụng để đỡ gánh nặng kinh tế cho người bệnh.
BS. Ngô Văn Tuấn
|
Với tác dụng đa cơ chế đó, Sirnakarang ngăn ngừa sự hình thành sỏi từ mầm mống ban đầu, bào mòn, phá vỡ sỏi cũ và tống chúng ra ngoài, ngăn ngừa tái phát sỏi. Sản phẩm giúp giảm sự đau đớn khi sỏi di chuyển và ngăn ngừa các biến chứng nhiễm khuẩn do sỏi gây ra. Sản phẩm được bào chế dạng cốm, dễ hấp thu nên cho hiệu quả cao hơn các dạng bào chế khác. |
Comments[ 0 ]
Post a Comment