Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể, có khả năng tự tái tạo rất lớn, chỉ khi tổn thương gan trên 70-80% mới biểu hiện ra triệu chứng viêm gan.
Bác sĩ Lê Văn Hải, Viện Y dược học dân tộc TP HCM cho biết, viêm gan là tình trạng tế bào gan bị tổn thương do nhiều nguyên nhân như siêu vi (A, B, C, E…), bia rượu, thuốc, môi trường ô nhiễm, thức ăn hóa chất độc hại.
Gan bị nhiễm độc có thể xảy ra ở bất kỳ người nào, từ người có chế độ dinh dưỡng hoàn chỉnh nhất cho đến những người thường xuyên tự đầu độc chính mình bằng bia, rượu - vốn là kẻ thù số 1 của gan. Bên cạnh đó, việc mắc bệnh gan mạn tính, nhiễm virus cũng là nguyên nhân gây viêm gan.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm gan
Theo quan điểm Ðông y, bệnh viêm gan thuộc phạm trù của các chứng hoàng đản (vàng da), hiếp thống (đau vùng hông sườn), tích tụ (chứng kết khối trong bụng hoặc sưng hoặc đau). Biểu hiện chủ yếu là bệnh lý của hệ tiêu hóa.
- Sự thay đổi tổng trạng như chán ăn, có cảm giác ngán rượu, bỏ hút thuốc lá, mệt mỏi, sụt cân, rối loạn tiêu hóa kéo dài, đau vùng hông sườn, sốt nhẹ.
- Có một số triệu chứng đặc hiệu biểu hiện ở da như sao mạch, bàn tay son, móng tay trắng, vàng da và niêm mạc, da sạm đen, ngứa da, dấu xuất huyết dưới da.
Theo bác sĩ Hải, quan điểm "phòng bệnh hơn trị bệnh" là phương châm điều trị chủ yếu của Ðông y, phải điều trị trước khi bệnh xuất hiện, còn khi bệnh đã biểu hiện rõ ràng thì việc trị liệu đã trở nên khó khăn và có khi đã quá muộn.
Viêm gan chỉ được điều trị tốt khi xác định được nguyên nhân gây ra bệnh (do bia rượu, do thuốc, do siêu vi...). Do đó, các cây thuốc nam như như atiso, cúc gai, diệp hạ châu... và một số kinh nghiệm dân gian chỉ có tác dụng đối với bệnh viêm gan ở giai đoạn nhẹ và cấp tính. Nếu người bệnh viêm gan có vàng da và niêm mạc có thể dùng các vị thuốc như nhân trần 20 g, chi tử 12 g và đại hoàng 8 g, sắc chung để uống điều trị chứng vàng da.
Ở các giai đoạn viêm gan mạn tính do siêu vi, xơ gan giai đoạn còn bù đến mất bù thì người bệnh cần phải được thăm khám, làm các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán và tìm nguyên nhân bệnh, đồng thời được điều trị bởi các bác sĩ chuyên khoa về bệnh gan mật có kinh nghiệm tại các bệnh viện, phòng khám.
Khi sử dụng thuốc tây và đông y chung, cần lưu ý đến sự tương tác giữa hai loại thuốc:
- Tương tác có lợi: Khi kết hợp nhóm thuốc kháng sinh, kháng siêu vi với nhóm thuốc đông y có tác dụng thanh nhiệt giải độc thì làm tăng tác dụng của thuốc kháng sinh, kháng siêu vi. Vì thế có thể giảm liều đối với các nhóm thuốc này và có thể làm giảm được tác dụng phụ của thuốc.
- Tương tác không có lợi: Khi sử dụng chung các thuốc chống ngưng tụ tiểu cầu, kháng đông dùng trong bệnh lý tim mạch với các thuốc có tác dụng hoạt huyết của đông y thì có thể gây tăng chảy máu, xuất huyết hoặc với thuốc chỉ huyết (cầm máu) thì có thể làm giảm tác dụng của các loại thuốc phòng ngừa trong tim mạch dẫn đến tình trạng "đột quỵ".
Chế độ ăn uống của người bệnh viêm gan
- Ăn nhiều chất đạm để cung cấp đủ chất đạm giúp tái tạo lại tế bào gan, bổ sung những axit amin cần thiết có khả năng ngăn chặn gan thoái hóa mỡ, như: methionin, cholin có nhiều trong sữa, trứng, thịt, cá, đậu nành, đậu phụ...
- Ăn nhiều chất bột để đảm bảo năng lượng cho hoạt động thải độc của gan, không quá 100 g đường (dạng tinh bột) mỗi ngày để tránh lên men quá nhiều trong đường ruột.
- Ăn giảm chất béo để tránh thoái hóa mỡ của tế bào gan, ứ đọng mỡ do gan tiết mật ít và gây hiện tượng chán ăn. Không dùng mỡ động vật (mỡ bão hòa), không chiên xào vì có thể sinh ra những chất gây độc cho gan, gây đầy bụng, chán ăn, hấp thu kém, nên dùng dầu thực vật (mỡ chưa bão hòa) như dầu mè, dầu đậu nành...
- Tăng cường chất xơ (có trong rau nấu chín, quả tươi) để tránh táo bón, không có lợi cho bệnh viêm gan (ứ đọng chất độc).
- Cần phải kiêng cử uống bia rượu trong thời gian điều trị bệnh viêm gan, hoặc nên phải bỏ hẳn để không dẫn đến các bệnh lý gan nặng hơn như xơ gan, ung thư gan.
Bác sĩ Hải khuyến cáo, không ăn một loại thức ăn nào quá nhiều và quá lâu vì dễ dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, khiến bệnh tật bắt đầu phát sinh.
|
Với tác dụng đa cơ chế, Sirnakarang ngăn ngừa sự hình thành sỏi từ mầm mống ban đầu, bào mòn, phá vỡ sỏi cũ và tống chúng ra ngoài, ngăn ngừa tái phát sỏi. Sirnakarang giúp giảm sự đau đớn khi sỏi di chuyển và ngăn ngừa các biến chứng nhiễm khuẩn do sỏi gây ra. Sản phẩm được bào chế dạng cốm, dễ hấp thu nên cho hiệu quả cao hơn các dạng bào chế khác. |
Comments[ 0 ]
Post a Comment