Sỏi tiết niệu bao gồm sỏi đường trên (thận và niệu quản) và sỏi đường dưới (bàng quang và niệu đạo).
Trong vài thập niên gần đây đã có nhiều
thay đổi trong các phương pháp điều trị sỏi tiết niệu: nghiêng về nội
khoa, tán sỏi hơn là can thiệp phẫu thuật.
Thầy thuốc chọn các phương pháp điều trị
dựa vào: vị trí của sỏi, kích thước của sỏi, thành phần của sỏi, mức
độ tắc nghẽn, chức năng thận, nhiễm khuẩn, cường độ và tần suất xuất
hiện đau.
Sỏi tiết niệu thường bị tái phát. Nếu
không điều trị sớm và đúng cách, bệnh sẽ diễn biến tới suy thận giai
đoạn cuối và cần điều trị thay thế bằng chạy thận nhân tạo chu kỳ, lọc
màng bụng liên tục ngoại trú hay ghép thận.
Trong điều trị nội khoa, cùng với chế độ
ăn ít calci, ít oxalat, nhiều chất xơ, uống nhiều nước hàng ngày, các
thuốc được lựa chọn để điều trị sỏi tiết niệu là:
Thuốc có tác dụng bào mòn, tan sỏi, tống sỏi:
Các thuốc trong nhóm này sẽ làm giảm kết
dính các tinh thể. Thuốc có hiệu quả ở những trường hợp sỏi nhỏ, bề
mặt sỏi nhẵn, vị trí thấp. Gồm có:
-
Kim tiền thảo với thành phần desmodium
styracifolium có tác dụng giảm kết dính, tiêu viêm, giảm đau. Đây là
dược liệu được sử dụng lâu đời ở Trung Quốc và Việt Nam, thịnh hành
trong điều trị sỏi tiết niệu. Các công ty dược phẩm đã dùng các kỹ
thuật bào chế hiện đại để sản xuất kim tiền thảo. Sirnakarang là sự kết hợp thành công giữa y học cổ truyền và công nghệ
bào chế hiện đại có công năng thanh lợi thấp nhiệt, lợi tiểu mạnh, bào
mòn làm tán sỏi theo nguyên lý - Nước chảy đá mòn- tiêu trừ thấp nhiệt,
làm ngưng kết sỏi, khắc phục được nguyên nhân gây sỏi.
Phụ nữ có thai, nuôi con bú và trẻ em không nên dùng kim tiền thảo.
Ngoài kim tiền thảo, các lương y còn thêm râu ngô, bông mã đề, rễ cỏ tranh làm thang thuốc cho người bệnh uống hàng ngày.
- Thuốc có thành phần: cao hạt chuối
hột, cao rau om, cao rau mèo, cao hạt lười ươi. Hoặc pinene, camphene
cineol, fenchone, borneol, anethol, olive oil. Thuốc có tác dụng thải
trừ sỏi, giảm viêm, tăng luồng máu qua thận và làm tăng thể tích nước
tiểu, giảm đau, giảm co thắt đường niệu. Vì vậy có tác dụng thuận lợi
cho đào thải sỏi cũng như ngăn ngừa sỏi tái phát.
- Dung dịch hemiacidrin chứa magnesium
hydroxycarbonat, magnesium acid citrat, citric acid, anhydrous D
gluconic acid và calcium carbonat được đưa trực tiếp vào niệu quản,
thận, tiếp xúc với sỏi qua ống thông niệu quản hoặc qua da để hòa tan
sỏi. Ở Việt Nam chưa có kinh nghiệm về thuốc và phương pháp điều trị
này.
Thuốc có tác dụng hạn chế tạo thành sỏi
- Thuốc lợi tiểu nhóm thiazid gây tăng đào thải calci niệu. Thuốc có thể gây mất nước, tụt huyết áp.
- Dung dịch kiềm natribicarbonat. Pha 5g
muối bicarbonat trong 500ml nước đun sôi để nguội uống trong ngày có
tác dụng phòng sỏi urat trong bệnh gut.
- Orthophosphat để đào thải pyrophosphat ra nước tiểu có tác dụng ức chế kết dính phosphat calci tạo sỏi.
- Kali citrat để phòng ngừa sỏi acid uric, sỏi cystine.
Thuốc chống co thắt, giảm đau
Trong sỏi tiết niệu có triệu chứng đau
do co thắt niệu quản, do tắc nghẽn. Tùy theo đau ít hay nhiều, có thể
chọn một trong các thuốc sau:
- Papaverin: hiện ít dùng.
- Alverin citrat (spasmaverin). Không dùng cho phụ nữ có thai và cho con bú.
- Spasfon (viên 80mg, ống 40mg).
- Drotaverin (viên 40mg, ống 40mg).
- Buscopan (viên 10mg, ống 20mg).
Thuốc kháng sinh khi có biến chứng bội nhiễm
Trong sỏi tiết niệu tái phát, sỏi to san
hô có bội nhiễm, các thầy thuốc thường chọn một trong các nhóm sau dựa
vào thể trạng người bệnh và kinh nghiệm của thầy thuốc:
- Nhóm cephalosporin thế hệ 2, thế hệ 3, thế hệ 4.
- Nhóm quinolon dưới dạng viên hoặc ống: ciprofloxacin, levofloxacin, norfloxacin, ofloxacin.
- Rất thận trọng khi chỉ định nhóm aminoglycosides vì độc thận.
Việc điều trị nội khoa trong bệnh sỏi
tiết niệu cần được tiến hành sớm, kịp thời, hiệu quả và theo dõi định
kỳ tốt để tránh chuyển đến suy thận mạn.
PGS.BS. Trần Văn Chất