THẾ NÀO LÀ SỎI TIẾT NIỆU ?
- Sỏi
tiết niệu là sỏi nằm ở các cơ quan thuộc hệ tiết niệu (bao gồm sỏi
thận, niệu quản, bàng
quang, niệu đạo…). Đây là tình trạng bệnh lý đã
được đề cập đến từ rất lâu trong y văn và là
một bệnh thường gặp, dễ gây
biến chứng như nhiễm trùng, suy thận cấp hoặc mạn tính.
- Nam giới có tỷ lệ mắc cao hơn nữ từ 2-3 lần. Sỏi gặp nhiều ở người trưởng thành hơn là ở trẻ
em và người già.
- Những người sinh sống ở những nơi khí hậu nóng và khô cằn tỷ lệ mắc sỏi cao hơn.
CÁC YẾU TỐ NÀO THUẬN LỢI CHO QUÁ TRÌNH TẠO SỎI ?
- Sỏi
tiết niệu do nhiều nguyên nhân và nhiều yếu tố phức tạp gây nên. Quá
trình hình thành sỏi thường
bắt nguồn từ các muối khoáng hòa tan trong
nước tiểu. Khi có những rối loạn về mặt sinh lý bệnh học và
có những yếu
tố thận lợi như giảm lưu lượng nước tiểu, nhiễm khuẩn tiết niệu, dị
dạng đường tiết niệu
hoặc có yếu tố di truyền thì các muối khoáng hòa
tan sẽ kết tinh từ một nhân nhỏ rồi lớn dần thành sỏi.
Một số yếu tố thuận lợi thúc đẩy quá trình hình thành sỏi
- Urate,
cystine, pH nước tiểu thấp, uống ít nước, một số sản phẩm chuyển hóa
của vi khuẩn hoặc các
nguyên nhân dẫn đến cô đặc nước tiểu là những yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hình thành
sỏi. Khẩu
phần ăn có nhiều oxalate cũng là một yếu tố thuận lợi.Tuy nhiên vai trò
của ăn thức ăn có nhiều
canxi gây tăng nguy cơ hình thành sỏi là không
rõ ràng. Ngày nay việc hạn chế canxi trong khẩu phần ăn
không còn là phương pháp hiệu quả để ngăn ngừa sỏi thận tiết niệu.
- Một số loại thuốc như Acetazolamide (Diamox), thuốc lợi tiểu quai, Glucocorticoids, Theophyline,
Vitamin D và C là những tác nhân thúc đẩy quá trình hình thành sỏi canxi.
- Lợi tiểu nhóm Thiazides, Salicylate, Probenecid, Allopurinol là những
tác nhân thúc đẩy quá trình hình
thành tạo sỏi axit uric. Khi dùng
thuốc như Triamterine, Acyclovir, Indinavir các thuốc này sẽ lắng đọng
lên sỏi đã hình thành và làm sỏi phát triển nhanh và to hơn.
2. Một số loại sỏi hay gặp và quá trình hình thành sỏi
2.1. Sỏi Canxi:
- Nguyên
nhân chính là tình trạng nước tiểu bị quá bão hòa về muối canxi do tăng
hấp thu canxi ở ruột
hoặc tăng tái hấp thu canxi ở ống thận. Xét nghiệm
nước tiểu sẽ thấy canxi niệu tăng rất cao. Bình thường
thận đào thải
khoảng 300 mg canxi qua nước tiểu trong 1 ngày, trong trường hợp nước
tiểu bị quá bão
hòa về muối canxi lượng canxi đào thải qua nước tiểu có
thể tăng lên 800-1000mg/24h với chế độ ăn
bình thường.
- Nguyên
nhân thứ 2 là giảm citrat niệu. Citrat niệu có tác dụng ức chế kết tinh
các muối canxi. Khi có
toan máu, nhiễm khuẩn tiết niệu, hạ Kali máu thì
thường citrat niệu giảm. Khi thiếu citrat nước tiểu sẽ bão
hòa muối
canxi tạo điều kiện kết tinh sỏi.
- Nguyên
nhân thứ 3 là nước tiểu quá bão hòa về Oxalat. Thức ăn chứa nhiều
oxalat như rau chút chít,
đại hoàng hoặc trong trường hợp ngộ độc
vitamin C sẽ dẫn đến tình trạng này. Ở người bị viêm ruột, cắt
một phần
ruột non cũng thường thấy tăng oxalat niệu và có sỏi oxalat, những người
có rối loạn hệ thống
men chuyển hóa ở gan do di truyền gây tăng bài
xuất acid oxalic để tạo thành oxalat cũng dễ có sỏi
oxalat.
2.3. Sỏi acid uric:
- Nguyên nhân là do nước tiểu quá bão hòa acid uric tạo điều kiện gây sỏi urat và
thường có tăng acid
uric niệu đi kèm. Sỏi acid uric gặp trong tăng acid
uric máu, bệnh goutte, trong một số trường hợp
di truyền.
2.4. Sỏi struvit:
- Sỏi
struvit là do nhiễm khuẩn lâu dài đường tiết niệu, vi khuẩn giải phóng
men urease, men này phân giải
ure gây tổng hợp ammoniac trong nước tiểu
giảm, dẫn tới làm giảm hòa tan struvit (MgNH4PO46H2O)
tạo điều kiện hình thành sỏi.
2.5. Sỏi cystin:
- Sỏi cystin là do cystin bị đào thải nhiều qua thận nhưng ít hòa tan nên dễ đọng thành sỏi.
SỎI TIẾT NIỆU GÂY RA NHỮNG HẬU QUẢ GÌ ?
- Sỏi tiết
niệu thường xuất hiện ở nơi có dòng nước tiểu yếu hoặc đường tiểu quá
nhỏ, uốn khúc, bị hẹp
hay tắc nghẽn, do đó những vị trí có sỏi thường là
thận, niệu quản chậu hoặc sát bàng quang, cổ bàng
quang, niệu đạo, lỗ
sáo. Sự di chuyển của sỏi, nhất là những sỏi có gai nhọn sẽ cọ xát vào
đường niệu
gây ra những cơn đau lưng, đái ra máu nếu sỏi ở thận, niệu
quản.
- Sỏi tại bàng quang, niệu đạo sẽ gây đái buốt, đái rắt, đái khó.
- Nếu
sỏi bị kẹt trong đài thận, sỏi sẽ chèn ép làm bế tắc đài thận nên đài
thận giãn, lâu dần thận sẽ giãn
mỏng như một túi nước. Khi các đài thận
bị ứ nước tiểu, sẽ tạo ra áp lực cao tác động vào thần kinh
thận và vỏ
thận gây ra cơn đau quặn thận.
- Khi
sỏi cọ xát vào đường niệu thì nguy cơ niêm mạc bị phù nề, viêm, là điều
kiện tốt cho vi khuẩn xâm
nhập gây viêm nhiễm đường tiểu. Người bệnh sẽ
thấy đau lưng, đái buốt, đái rắt, đái đục.
- Nếu sỏi gây nhiễm khuẩn nặng sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như suy thận. Nếu thận ứ mủ
nhiều giãn to đài bể thận có thể phải cắt bỏ thận.
- Tắc nghẽn đường tiểu làm tồn đọng nước tiểu gây viêm nhiễm lâu ngày sẽ dẫn đến xơ hóa thành đường
tiểu kể cả đài thận.
- Viêm
nhiễm nặng ở đường tiểu còn làm hoại tử đường tiểu, xuất hiện các lỗ rò
ở bàng quang, niệu quản.
Sự hiện diện lâu ngày của sỏi hai bên niệu
quản hay sỏi thận một bên còn bên kia sỏi niệu còn dẫn đến
hiện tượng vô
niệu (không có nước tiểu). Chức năng thận sẽ bị giảm nếu có sỏi ở hai bên thận, nhất là
khi có sự kết hợp của viêm nhiễm gây ra suy thận cấp hoặc mạn tính.
CHẨN ĐOÁN SỎI TIẾT NIỆU NHƯ THẾ NÀO ?
- Nơi
sỏi trú ngụ, đường tiết niệu bị kích thích đưa đến co thắt, … gây tăng
áp lực đột ngột ở đài – bể
thận làm nên các cơn đau quặn thận . Đầu tiên
chỉ đau ê ẩm vùng thắt lưng, đau tăng lên khi vận động
nặng, đi đường
dài, đạp xe…
Những dấu hiệu của cơn đau quặn thận
- Đau:
Tính chất đau dữ dội, mãnh liệt, cảm giác bị co thắt bên trong, lăn
lộn, không nằm ở tư thế nào
để giảm đau, nôn và buồn nôn. Vị trí: Vùng
hố sườn lưng 1 bên hay 2 bên cả vùng hạ sườn. Tức nói khi
vỗ vào hố
lưng, có thể sờ thấy thận nếu to, chạm thận-bập bềnh thận dương tính.
Hướng lan: Từ hố thắt
lưng lan xuống dưới hoặc ra phía trước đến hố chậu
rồi bộ phận sinh dục ngoài và mặt trong đùi.
- Tiểu tiện:
Tiểu máu, sau cơn đau quặn thận, máu toàn bãi, thường tái phát khi bệnh
nhân rung chuyển
nhiều và mạnh, đỡ dần khi nghỉ ngơi. Ngoài máu có thể
tiểu ra mủ (dấu hiệu cần nghĩ đến sỏi thận), tiểu
buốt hay gắt (nếu viêm
đài – bể thận).
- Sốt: Sốt cao, rét run nếu có viêm đài – bể thận.
Xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh
- Nhằm mục đích chẩn đoán xác định sỏi, chẩn đoán biến chứng do sỏi gây ra và tìm nguyên nhân thuận lợi tạo sỏi.
- Cần biết lựa chọn từng phương pháp từ đơn giản đến phức tạp phù hợp với từng trường hợp.
- Để
chắc chắn cần xét nghiệm nước tiểu: Tìm các tinh thể (calci oxalat hay
phosphat, acid uric,
citrat, magnesium…), đo pH, cấy nước tiểu. Siêu âm,
chụp thận UIV, UPR hay không chuẩn bị
- Xét nghiệm máu: Định lượng hormon tuyến cận giáp, công thức máu…
- Lựa chọn phương pháp thăm dò nào do bác sĩ khám và quyết định
NGƯỜI CÓ SỎI TIẾT NIỆU KHI NÀO CẦN VÀO VIỆN CẤP CỨU ?
Bệnh nhân cần được vào viện ngay khi được chẩn đoán có 1 trong các tình trạng dưới đây:
- Ứ mủ bể thận do sỏi bể thận hoặc niệu quản.
- Vô niệu - suy thận do tắc nghẽn niệu quản 2 bên hoặc 1 bên ở thận duy nhất còn chức năng.
- Bệnh
nhân không có khả năng uống thuốc do bị nôn dai dẳng, suy kiệt, hoăc
cao tuổi hay những bệnh
nhân đau dữ dội nhưng không đáp ứng với các
thuốc giảm đau thông thường.
- Đái máu đại thể liên tục
- Suy thận mạn giai đoạn cuối do sỏi
XỬ TRÍ SỎI TIẾT NIỆU RA SAO?
- Chính vì những biến chứng nguy hiểm mà sỏi thận
gây ra nên có những trường hợp cần can thiệp cấp
cứu để lấy sỏi ngay,
có trường hợp có thể trì hoãn lấy sỏi nghĩa là can thiệp lấy sỏi chủ
động theo lịch
như mổ lấy sỏi hoặc tán sỏi. Có trường hợp không cần can
thiệp gì đối với sỏi nhỏ không gây các biến
chứng đau nhiều, đái ra máu
hoặc gây biến chứng viêm nhiễm ở thận.
- Sỏi thận tiết niệu là một bệnh lý phức tạp, thường gây ra nhiều biến chứng. Vì
vậy khi phát hiện ra sỏi
thận tiết niệu, bệnh nhân nên đến ngay với bác
sĩ chuyên khoa thận tiết niệu để được tư vấn và có biện
pháp điều trị
phù hợp.
Lựa chọn phương pháp điều trị sỏi tiết niệu
- Sau
khi loại trừ các trường hợp khẩn cấp kể trên và khống chế được cơn đau
do sỏi tiết niệu gây ra, bước tiếp theo là đưa ra được phương hướng điều
trị cụ thể cho từng trường hợp.
- Phương hướng điều trị cũng như tiên lượng của sỏi tiết niệu nhất là sỏi niệu quản phụ thuộc vào 2 yếu tố
chính: kích thước và vị trí của sỏi.
Kích thước của sỏi
- Là đường kính lớn nhất đo được của sỏi, khi sỏi < 5 mm thì cố gắng tác động để sỏi có thể rơi
xuống
bàng quang một cách tự nhiên. Trong những trường hợp này thì sỏi
thường xuống trong vòng 2 tuần và
khoảng 80% số bệnh nhân không cần can
thiệp gì ngoài thuốc giảm đau và giãn cơ trơn niệu quản.
- Những
bệnh nhân có sỏi cản quang mà chọn phương pháp điệu trị bảo tồn này thì
nên kiểm tra định kỳ
chụp bụng không chuẩn bị 1-2 tuần/lần và nên uống
nhiều nước để tăng lượng nước tiểu bài tiết. Cần để
ý biến chứng nhiễm
khuẩn trong thời gian này cũng như theo
dõi sát chức năng thận. Bệnh nhân nên đến
chuyên khoa tiết niệu khi
kích thước của sỏi lớn hơn 5 mm hoặc kích thước tuy nhỏ hơn 5 mm nhưng
sỏi
không xuống được bàng quang sau 2- 4 tuần điều trị bảo tồn để xem
xét khả năng lấy sỏi.
Vị trí của sỏi
- Sỏi
thận với kích thước < 2cm thường được điều trị bằng phương pháp tán
sỏi ngoài cơ thể, tuy nhiên
nếu sỏi nằm ở phía đài dưới của thận thì cho
kết quả kém hơn. Trong trường hợp sỏi nằm ở vị trí này thì
giới hạn chỉ
định tán sỏi khi < 1cm.
- Sỏi niệu quản có kích thước
dưới 1cm tán sỏi ngoài cơ thể cũng được áp dụng cho một số trường hợp.
Tuy nhiên tác động có hại cho buồng trứng là một trong những trở ngại để
chỉ định phương pháp này ở
nữ giới trong tuổi sinh đẻ mà có sỏi nằm ở
1/3 giữa hoặc 1/3 dưới.
-
Phương pháp mổ lấy sỏi qua da vẫn là một cách điều trị tương đối an
toàn và hiệu quả nên được chỉ định cho các trường hợp sỏi thận có kích
thước lớn và sỏi nằm ở niệu quản không có khả năng tán hoặc lấy sỏi qua
nội soi.
-
Ngày nay với phát triển của nội soi niệu quản thì ngoài phương pháp tán
sỏi ngoài cơ thể cũng cũng có thể lấy sỏi qua nội soi. Chỉ định lấy sỏi
qua nội soi phải dựa vào từng trường hợp cụ thể, thể trạng bệnh nhân,
chức năng thận khi phát hiện sỏi cũng như kinh nghiệm của thầy thuốc và
phương tiện của cơ sở điệu trị .
Điều trị giảm đau
- Nhóm thuốc giảm đau chống viêm non-steroids như: Voltaren, Mobic, Felden...dùng đường uống hoặc đường tiêm.
- Nhóm giảm đau trung ương như: morphin, codein.
- Nhóm thuốc giãn cơ: Spasfon đường uống, Visceralgin đường tiêm.
- Chú ý các tác dụng phụ của thuốc và thận trong trong trường hợp bệnh nhân đang có mất nước.
PHÒNG BỆNH
- Với bất kỳ loại sỏi nào cũng cần: Uống nhiều nước, đảm bảo lượng nước tiểu khoảng > 2.5 lít/ngày.
- Điều trị các đợt nhiễm khuẩn, viêm thận bể thận.Điều trị các biến chứng hay các yếu tố thuận lợi dễ gây hình thành sỏi.
- Khi biết được nguyên nhân hay thành phần của sỏi thì phải điều trị theo nguyên nhân
TS.BS. Đỗ Gia Tuyển - Đại học Y Hà nội