Dấu hiệu suy thận


Các bệnh viêm cầu thận cấp, viêm ống thận cấp, viêm cầu thận mạn đều có thể tiến triển đến suy thận. Vì vậy, bệnh nhân bị bệnh thận cần biết rõ những dấu hiệu suy giảm chức năng thận để kịp thời khám và điều trị nhằm cải thiện thời gian và chất lượng cuộc sống
Suy thận có hai loại suy thận cấp và mạn tính. Suy thận cấp là sự suy giảm chức năng thận diễn ra nhanh chóng trong vài ngày. Suy thận cấp thường do: nhiễm khuẩn, chấn thương, sốc, suy tim, ngộ độc hoặc dùng thuốc quá liều. Việc điều trị bao gồm điều chỉnh lại các chức năng thận, chạy thận nhân tạo.
Suy thận mạn tính diễn ra thời gian dài hơn, gây ra bởi các bệnh mạn tính như tăng huyết áp kéo dài, dị tật bẩm sinh ở thận. Nếu các nguyên nhân được chẩn đoán và điều trị sớm có thể làm giảm tình trạng suy thận, tuy không thể hồi phục lại được chức năng thận đã bị suy yếu. Suy thận dẫn đến tình trạng nhiễm độc cho cơ thể bởi các chất thải trong máu không được loại trừ ra ngoài.
Những dấu hiệu suy thận thường rất mơ hồ
Đa số các triệu chứng suy thận là không rõ rệt, thường gặp là mất cảm giác ngon miệng, choáng váng và nôn. Những triệu chứng này có thể xuất hiện khi mắc các bệnh: cảm cúm, ngộ độc thức ăn, thức ăn không hợp khẩu vị, thiếu chất đạm hay bị nhược cơ. Người cao tuổi, bị tiểu đường, tăng huyết áp hoặc gia đình có người bị bệnh thận là những yếu tố dễ bị suy thận.
Dấu hiệu toàn thân: mệt mỏi (thường xuyên mệt hoặc chỉ mệt khi hoạt động thể lực), khó tập trung, giảm trí nhớ và mất ngủ... có thể do thiếu máu, do chức năng thận suy giảm nên không loại bỏ được các chất độc. Những triệu chứng này cũng xuất hiện vì các nguyên nhân khác, do đó cần thăm khám tỉ mỉ và làm các xét nghiệm.
Suy thận có thể do sự tích tụ các chất độc hại trong cơ thể: Có vị tanh trong miệng hoặc hơi thở hôi, choáng váng, buồn nôn, mất cảm giác ngon miệng, sợ ăn thịt, khó tập trung, bị ngứa.
Suy thận do tích tụ nước trong cơ thể: phù ở mặt, chân hoặc tay, khó thở, hụt hơi (do có nước ở trong phổi). Giữ nước biểu hiện bằng các triệu chứng: phù, tăng huyết áp và khó thở. Phù trắng, mềm, ấn lõm, đôi khi chỉ nặng hai mi mắt hoặc nặng hơn là phù to toàn thân, tăng cân nhanh chóng. Tăng huyết áp cả số tối đa và số tối thiểu. Sự mất cân bằng giữa lượng muối và nước uống, có thể làm nước tích tụ. Vì vậy, ở giai đoạn đầu, bệnh nhân phải ăn nhạt và dùng thuốc lợi tiểu. Nhưng liệu pháp này có thể không kéo dài được lâu và bệnh nhân phải lọc máu. Do đó bệnh nhân suy thận, khi thấy những triệu chứng trên cần phải đến khám để được điều trị phù hợp, kịp thời. 

Suy thận có thể do thận bị tổn thương: đi tiểu nhiều hoặc ít hơn bình thường, nước tiểu có bọt hoặc bong bóng, đi tiểu ra máu.
Suy thận có thể do thiếu máu: mệt mỏi, yếu sức, luôn thấy lạnh, khó thở, lú lẫn...
Ngoài ra còn nhiều dấu hiệu xuất hiện ở bệnh nhân suy thận như: ngứa ngoài da, có thể là do hàm lượng phospho và canxi trong máu cao. Nhưng có một số bệnh nhân, mặc dù đã điều chỉnh hàm lượng phospho và canxi máu nhưng triệu chứng ngứa vẫn còn, có lẽ do kích thích thần kinh trong da, do sự tích tụ các độc tố bởi thận không có khả năng lọc. Đối với trường hợp này, phải tiến hành chạy thận nhân tạo để điều trị. Bệnh nhân có thể thấy đau ở chân tay, nếu xác định bệnh nhân bị đau dây thần kinh do thận thì cần phải lọc máu.
Làm gì để phát hiện và điều trị suy thận sớm?
- Bệnh nhân cần đi khám và kiểm tra để xác định chính xác suy thận khi các triệu chứng xuất hiện, vì các dấu hiệu của suy thận không rõ rệt và đặc thù. Nhiều trường hợp, việc điều trị chỉ dùng thuốc hoặc các biện pháp can thiệp khác mà không phải chạy thận nhân tạo. Chỉ định chạy thận nhân tạo phải dựa vào kết quả xét nghiệm và các triệu chứng bệnh. Nếu có kết quả xét nghiệm dương tính bệnh nhân phải được điều trị sớm mới có hiệu quả cao và tránh các biến chứng nặng có thể xảy ra.
- Bệnh suy thận thường không có nhiều dấu hiệu, bệnh nhân nên ghi lại các dấu hiệu của mình, theo dõi và báo cho bác sĩ khám bệnh biết.
- Cần tìm hiểu nhiều thông tin hơn để loại trừ bệnh và nếu có bị bệnh, khi được phát hiện sớm, có thể thực hiện các cách làm chậm tiến trình phát triển bệnh. Một phương pháp để làm chậm tiến trình phát triển bệnh hay ngăn chặn không thể xảy ra suy thận mạn, đặc biệt là khi bệnh mới bị ở giai đoạn đầu là kiểm soát huyết áp. Nên điều trị tích cực để giữ huyết áp ở mức trung bình (120/80mmHg) hoặc thấp hơn nếu bạn bị tiểu đường và/hoặc có protein trong nước tiểu.
BS. Trần Thị Hiền Trang




thuoc chua benh soi than
Xem chi tiết

Sự khác biệt giữa suy thận và bệnh thận


Thận và chức năng thông thường của thận
Thận là một cặp cơ quan hình hạt đậu nằm hai bên cột sống ở vùng giữa bên dưới của lưng. Mỗi quả thận nặng khoảng ¼ cân Anh (pound) = 112.5 gram và chứa khoảng một triệu đơn vị lọc gọi là các ống sinh niệu (nephrons).
Mỗi ống sinh niệu (nephron) được cấu tạo bởi một tiểu cầu (glomerulus) và một ống nhỏ (tubule). Tiểu cầu (glomerulus) là một cái lọc thu nhỏ hay thiết bị giống như cái sàng/ cái rây trong khi ống nhỏ (tubule) là một cái ống nhỏ xíu như cấu trúc gắn liền đối với tiểu cầu (glomerulus).
Quả thận được kết nối với bàng quang (urinary bladder) do các ống gọi là ống niệu quản (ureters). Nước tiểu được lưu giữ trong bàng quang cho đến khi bàng quang được là làm trống bằng cách đi tiểu. Bàng quang được kết nối ra bên ngoài cơ thể bằng một ống khác như cấu trúc ống gọi là niệu đạo (urethra).
Chức năng chính của thận là loại bỏ chất thải và nước dư thừa từ máu. Thận tiến hành gạn lọc khoảng 200 lít máu mỗi ngày và sản xuất khoảng 2 lít nước tiểu.
Những sản phẩm phế thải được tạo ra từ các quá trình trao đổi chất bình thường bao gồm các phân hủy các mô hoạt động, thức ăn được tiêu hóa, và các chất khác.
Thận cho phép tiêu thụ nhiều loại thức ăn, các loại thuốc, các loại vitamin và các chất bổ sung, chất phụ trợ, và chất lỏng dư thừa mà không cần lo lắng rằng độc hại của sản phẩm sẽ tích lũy lên đến mức có hại.
Thận cũng đóng một vai trò chính trong điều chỉnh về mật độ khác nhau của các khoáng chất như calcium, sodium và potassium trong máu.
- Ở bước đầu tiên trong sự gạn lọc, máu được chuyển vào tiểu cầu (glomeruli) do bởi các mạch máu có kẽ hở cực nhỏ gọi là những mao quản/ mao mạch (capillaries). Tại đây, máu được lọc ra các sản phẩm phế thải và dung dịch dư thừa trong khi các tế bào máu đỏ, chất đạm (protein), và các phân tử lớn được giữ lại trong các mao quản (capillaries). Ngoài các chất phế thải, một số các chất hữu dụng cũng bị lọc ra. Phần máu lọc ra được gom lại trong 1 túi gọi là Bowman của nang và chảy vào trong các ông nhỏ .
- Những ống nhỏ này là bước kế tiêp trong qui trình gạn lọc . Những ống nhỏ được lót bằng tế bào cao chức năng để tiến hành sự gạn lọc, thẩm thấu lại nước và hóa chất hữu ích cho thân thể trong khi giữ lại một số chất thải bổ sung ở ống nhỏ
Thận cũng sản xuất hooc-môn (hormone) nhất định mà có chức năng quan trọng trong cơ thể, bao gồm như sau:
- Dạng kích hoạt của vitamin D (calcitriol or 1,25 dihydroxy-vitamin D), mà điều chỉnh sự hấp thụ chất calcium và phốt pho (phosphorus) từ thực phẩm, thúc đẩy sự hình thành của xương mạnh mẽ
- Erythropoietin (EPO), chất kích thích tuỷ xương để sản xuất tế bào máu.
- Renin, chất điều chỉnh lượng máu và huyết áp
Sự khác biệt giữa suy thận và bệnh thận

Suy Thận (Kidney failure)
- Suy thận xảy ra khi một phần hoặc toàn phần thận mất khả năng để thực hiện các chức năng bình thường.
- Điều này nguy hiểm bởi vì nước, chất phế thải, và các chất độc hại tích tụ lại mà bình thường các thứ này được loại bỏ khỏi cơ thể bằng thận.
- Nó cũng gây ra những vấn đề khác như thiếu máu, cao huyết áp, sự nhiễm axit (thừa acid trong dung dịch cơ thể), rối loạn cholesterol và axit béo, và bệnh xương trong cơ thể do thân suy giảm sự sản xuất hooc môn.
 
Bệnh suy thận mãn tính (Chronic Kidney Disease)

Bệnh suy thận mãn tính là khi thận vị suy thoái từ từ và thường vĩnh viễn mất chức năng thận qua thời gian. Điều này xảy ra dần dần theo thời gian, thông thường từ nhiều tháng đến nhiều năm. Bệnh suy thận mãn tính được chia thành năm giai đoạn theo mức độ nghiêm trọng ngày càng tăng.


Giai Đoạn
Mô Tả
GFR mL/min/1.73m2
1
Thận bị hư hại rất nhẹ (slight) với sự gạn lọc tăng lên hay bình thường
Hơn 90
2
Chức năng Thận giảm nhẹ
60-89
3
Chức năng Thận giảm ở mức độ trung bình
30-59
4
Chức năng Thận giảm ở mức độ nghiêm trọng
15-29
5
Suy thận cần chạy thận hoặc cấy ghép
Thấp hơn 15

Ghi Chú: GFR là tỷ lệ lọc cầu thận, một phép đo chức năng của thận.
Giai đoạn thứ 5 của suy thận mãn tính cũng được gọi là giai đoạn cuối bệnh thận, trong đó toàn bộ hay hầu như toàn bộ thận hay mất chức năng thận và bệnh nhân cần chạy thận hoặc cấy ghép thận để sinh tôn. Thuật ngữ tiếng Anh "renal" (thận) dùng để chỉ "kidney" (thận). Do đó, một tên khác cho suy thận = "kidney failture" là "renal failure". Loại bệnh suy thận nhẹ thường được gọi là "renal insufficiency".
Không giống như bệnh suy thận mãn tính (chronic kidney disease/ chronic kidney failure), suy thận cấp tính (acute kidney failure) phát triển nhanh chóng, trong vài ngày hoặc vài tuần.
- Suy thận cấp tính thường phát triển để đáp ứng cho một sự rối loạn mà trực tiếp ảnh hưởng đến thận, ảnh hưởng đến sự cung cấp máu cho thận, hoặc sự bài tiết nước tiểu .
- Suy thận cấp tính thường không làm hỏng thận vĩnh viễn. Với sự điều trị thích hợp cho tình trạng của thận, thận thường có thể phục hồi và phục hồi hoàn toàn .
- Tuy nhiên, trong một số trường hợp suy thận cấp tính có thể tiến triển đến bệnh suy thận mãn tính.


 Nguyên nhân dẫn đến suy thận mãn tính

Mặc dù bệnh suy thận mãn tính đôi khi là kết quả từ các căn bịnh chính của thận, những nguyên nhân chính là bệnh tiểu đường và cao huyết áp.
- Bệnh Tiểu Đường (diabetes mellitus) loại 1 và loại 2 gây ra một tình trạng gọi là "thận tiểu đường" (diabetic nephropathy), là nguyên nhân hàng đầu của bệnh thận ở Hoa Kỳ.
- Huyết áp cao (hypertension), nếu không được kiểm soát, có thể làm hư thận theo thời gian.
- Viêm thận-tiểu-cầu (Glomerulonephritis) là viêm và thiệt hại về lọc của thận và có thể gây suy thận. Những tình trạng xuất hiện sau khi bị viêm (Postinfectious conditions)và bịnh lở ngoài da (lupus) là một trong các nguyên nhân gây nhiều viêm thận-tiểu-cầu (glomerulonephritis).
- Bệnh thận đau nang (Polycystic kidney disease) là một ví dụ của một nguyên nhân di truyền của bệnh thận mãn tính trong đó cả hai quả thận có nhiều nang (multiple cysts).
- Việc sử dụng thuốc giảm đau (analgesics) như acetaminophen (Tylenol) và ibuprofen (Motrin, Advil) thường xuyên qua thời gian dài thời gian có thể làm giảm đau thận, một nguyên nhân của bệnh thận. Một số thuốc khác nhất định cũng có thể làm hư thận.
- Tắc nghẽn và cứng của động mạch (atherosclerosi = xơ vữa động mạch) dẫn đến thận gây ra một tình trạng gọi là thận thiếu máu cục bộ (ischemic nephropathy), là một nguyên nhân khác gây ra sự hủy hoại thận tiến triển (diễn tiến thận hư)
- Sự tắc nghẽn các dòng nước tiểu do sạn thận, một tiền liệt tuyến dược mở rộng, những chứng cơ quan bị thu hẹp (strictures = narrowings), hoặc ung thư cũng có thể gây bệnh thận.
- Các nguyên nhân khác của bệnh thận mãn tính bao gồm nhiễm HIV, bệnh tế bào liềm (sickle cell disease), lạm dụng ma túy (heroin abuse), thoái hóa Amyloid protein (amyloidosis), sỏi/sạn thận, nhiễm trùng thận mãn tính, và những loại ung thư nhất định.
Nếu bạn có bất kỳ các tình trạng sau đây, bạn đang ở nguy cơ cao hơn-bình thường về sự phát triển bệnh thận mãn tính. Các chức năng thận của bạn cần nên theo dõi thường xuyên.
- Bệnh Tiểu Đường loại 1 hay loại 2 (Diabetes mellitus type 1 or 2 )
- Bệnh cao huyết áp (High blood pressure / hypertension)
- Bệnh cao mỡ trong máu (High cholesterol)
- Bệnh tim (heart disease)
- Bệnh gan (Liver disease)
- Bệnh thận (kidney disease)
- Bệnh thoái hóa Amyloid protein (Amyloidosis)
- Bệnh tế bào hình liềm (Sickle cell disease)
- Bệnh lở da do tình trạng viêm mạn tính gây ra bởi một bệnh tự miễn dịch (Systemic Lupus erythematosus)
- Các bệnh mạch máu như viêm động mạch [arteritis), viêm mạch (vasculitis), hoặc sự loạn phát triển sơ-cơ (fibromuscular dysplasia)
- Sự trào ngược nước tiểu từ bàng quang vào niêu quản (Vesicoureteral reflux) (một vấn đề đường tiết niệu mà trong đó nước tiểu đi sai đường)
- Những Vấn đề về các khớp xương hay bắp thịt mà thường xuyên yêu cầu phải sử dụng thuốc chống viêm
- Nếu gia đình bạn có bệnh sử về bệnh thận.


thuoc chua benh soi than
Xem chi tiết

Sỏi thận dễ dẫn đến suy thận

Trong các loại sỏi tiết niệu thì sỏi thận là đáng sợ nhất. Nếu bị sỏi đường tiết niệu cả 2 bên (niệu quản, thận) thì nguy hiểm hơn rất nhiều. Sỏi thận nếu không được điều trị thì nguy cơ thận bị tổn thương do sự viêm nhiễm của sỏi thận gây nên. Từ đây thận có thể bị suy tạo ra một loạt biến chứng nguy hiểm cho người bệnh. Khi nhiễm khuẩn đường tiểu có thể làm xuất hiện hoại tử đường tiểu, các lỗ rò bàng quang hoặc rò niệu quản; làm ứ mủ bể thận hoặc làm xơ hóa thận. Hậu quả của xơ hóa thận sẽ dẫn đến giảm chức năng co bóp đường tiểu, chít hẹp làm bế tắc đường tiểu, tồn đọng nước tiểu và gây suy thận. Suy thận là bệnh thận mạn tính với tỷ lệ tử vong lên tới 90% (suy thận còn có thể do biến chứng của đái tháo đường, tăng huyết áp, viêm cầu thận).


Suy thận do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, trong đó sỏi thận được xếp vào hàng đầu bảng. Vì vậy, khi bị sỏi thận cần hết sức thận trọng để tránh biến chứng suy thận.
 
Sỏi có thể gây tổn thương nguy hiểm đến thận:
Sỏi thận là một trong các loại sỏi đường tiết niệu (thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo, lỗ sáo). Tất cả các loại sỏi đường tiết niệu đều có thể làm ảnh hưởng đến thận do gây cản trở dòng chảy nước tiểu, làm ứ đọng nước tiểu gây viêm nhiễm đường tiết niệu và nguy hiểm nhất là nhiễm khuẩn thận gây hậu quả là suy thận. 
 
 
 Sỏi đường tiết niệu thường xuất hiện ở nơi có dòng nước tiểu yếu hoặc đường tiểu quá nhỏ, uốn khúc, bị hẹp do dị dạng bẩm sinh hay tắc nghẽn bởi chấn thương, u chèn ép hoặc do lao. Đa phần các trường hợp bị sỏi đường tiết niệu là do sự lắng đọng các khoáng chất (oxalat, canxi, vitamin C, acid uric, photpho...), trong khi lượng nước đào thải qua thận ít hoặc rất ít (do nhiều lý do khác nhau) sẽ làm lắng đọng các khoáng chất gây nên cặn thận, sỏi thận.
 
Trong các loại sỏi thận thì sỏi canxi là loại hay gặp nhất, chiếm khoảng 80 - 90% các trường hợp sỏi thận. Lý do là lượng canxi dư thừa trong cơ thể không sử dụng hết và được loại bỏ qua thận, lượng dư thừa này thường chảy vào nước tiểu. Nếu canxi không được đưa ra ngoài, hoặc đơn giản là quá nhiều để có thể hòa tan trong nước tiểu, nó sẽ rắn lại và kết hợp với các khoáng chất khác tạo thành sỏi. Sỏi canxi thường xuất hiện ở những nguời có lượng vitamin D cao hoặc bị cường tuyến giáp (hạch tuyến giáp quá nhạy cảm). Những người bị suy thận thường có khả năng bị sỏi canxi. 
Ngoài ra còn có loại sỏi được hình thành sau khi đường tiết niệu bị viêm (sỏi khuẩn). Loại sỏi này khá phổ biến ở phụ nữ, bởi lẽ phụ nữ dễ bị viêm đường tiết niệu hơn nam giới (niệu đạo nữ ngắn hơn nam giới, lỗ tiểu nữ lại gần hậu môn rất dễ nhiễm khuẩn). Mỗi khi bị viêm đường tiết niệu mạn tính sẽ tạo ra một loại enzym (men) làm tăng lượng amoniac trong nước tiểu. Lượng amoniac dư thừa này làm vi khuẩn có thể phát sinh nhanh hơn tạo điều kiện cho sỏi khuẩn được hình thành. Sỏi khuẩn thường có nhiều góc, cạnh nhọn, hoặc phân nhánh thành sừng và kích thước có thể phát triển lớn làm tổn thương đến thận.
Khác với nữ giới, nam giới có thể bị sỏi tiết niệu loại do acid uric gây ra. Sỏi acid uric thường gặp ở người có tiền sử bệnh gút. Sỏi thận được hình thành có thể được đào thải ra ngoài theo nước tiểu hoặc rơi xuống niệu quản, bàng quang, niệu đạo, nhưng nếu không có tác động gì thì chúng có thể được tồn tại ở đài hoặc bể thận, hoặc có mặt cả hai vị trí. Vì vậy, những vị trí có sỏi thường là ở thận, niệu quản chậu hoặc sát bàng quang, cổ bàng quang, niệu đạo, lỗ sáo... 

Phòng suy thận khi bị sỏi thận
Suy thận là trạng thái suy giảm chức năng của thận, bao gồm chức năng bài tiết lượng nước dư thừa trong cơ thể và bài tiết chất độc trong cơ thể do quá trình trao đổi chất gây ra. Suy thận sẽ làm suy giảm chức năng sản xuất một số hormon do thận sinh ra. Vì vậy, suy thận có thể sinh ra bệnh tăng huyết áp, suy tim, nhồi máu cơ tim, viêm loét dạ dày. Suy thận cũng làm giảm sức khỏe sinh sản, giảm khả năng tình dục và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống. Những bệnh nhân bị sỏi thận nếu không được chữa trị sớm và kịp thời sẽ có nguy cơ bị suy thận rất cao. 


Sỏi thận có thể do tình cờ phát hiện khi khám bệnh định kỳ hoặc do khám một loại bệnh khác (đau thắt lưng do thoái hóa cột sống, hoặc thoát vị đĩa đệm). Hoặc sỏi thận được phát hiện khi siêu âm ổ bụng vì một lý do nào đó. Dù là lý do gì đi chăng nữa nhưng khi bị sỏi thận thì không được chủ quan, xem thường (vì có nhiều trường hợp không có biểu hiện gì kèm theo) để đề phòng suy thận có thể xảy ra. Muốn vậy, nên khám bệnh định kỳ hoặc mỗi khi thấy cơ thể bất thường (đau, mỏi thắt lưng, rối loạn tiểu tiện hoặc sốt không rõ nguyên nhân...) thì cần đi khám bệnh để hy vọng phát hiện sỏi thận càng sớm càng tốt.
 
Khi đã được xác định bị sỏi thận thì cần điều trị tích cực theo đơn thuốc và tư vấn của bác sĩ. Tùy theo mức độ của bệnh mà bác sĩ khám bệnh sẽ có hướng điều trị cụ thể. Nếu ở mức độ còn có thể điều trị nội khoa để bào mòn sỏi, cộng thêm uống nhiều nước (nếu có thể) để tống sỏi ra ngoài thì có thể dùng các loại thuốc Tây y hoặc Đông y. Tất nhiên uống thuốc gì, liều lượng bao nhiêu là do bác sĩ khám bệnh chỉ định. Nếu bác sĩ thấy tính chất, vị trí và kích thước của sỏi thận không cho phép điều trị nội khoa thì sẽ giải quyết bằng phương pháp ngoại khoa (mổ lấy sỏi).
BS. Việt Bắc

 


thuoc chua benh soi than
Xem chi tiết

Sỏi thận dễ dẫn đến suy thận

Sỏi thận là bệnh thường gặp, không khó chữa và ít nguy hiểm tuy nhiên sỏi thận lại là nguyên nhân hàng đầu gây ra suy thận - căn bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng tới nhiều chức năng của cơ thể và tính mạng bệnh nhân, suy thận giai đoạn cuối bệnh nhân thậm chí phải chạy thận nhân tạo để duy trì cuộc sống. Vì vậy, khi bị sỏi thận bệnh nhân phải hết sức lưu ý để bệnh không gây ra biến chứng suy thận.

1.Tại sao sỏi thận lại gây ra suy thận
Sỏi thận hình thành là do sự tăng quá mức nồng độ các chất khoáng như canxi, oxalat, muối urat, natri, cystine hay phốt pho. Những chất này lắng đọng trong đài, bể thận và kết thành sỏi. Những viên nhỏ có thể tự ra ngoài theo nước tiểu mà không gây triệu chứng gì. Những viên lớn hơn có thể vẫn di chuyển được theo dòng nước tiểu nhưng gây đau đớn và chảy máu đường tiết niệu, hay mắc lại ở những chỗ hẹp của niệu quản, gây viêm tắc niệu quản, bí tiểu. Những viên có bề mặt xù xì, lởm chởm, sắc nhọn rất dễ làm tổn thương thận là điều kiện tốt cho vi khuẩn xâm nhập, gây viêm nhiễm đường tiểu. Người bệnh sẽ thấy đau lưng, đái buốt, đái dắt, đái đục. Khi sỏi xuất hiện ở hai bên thận kết hợp với đường tiểu bị viêm nhiễm nặng sẽ khiến chức năng thận bị suy giảm và dẫn đến suy thận.

Suy thận là trạng thái suy giảm chức năng của thận, bao gồm chức năng bài tiết lượng nước dư thừa trong cơ thể và bài tiết chất độc trong cơ thể do quá trình trao đổi chất gây ra, và kéo theo sự suy giảm chức năng sản xuất một vài hooc - môn do thận sinh ra. Suy thận ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe bệnh nhân như: gây ra các bệnh cao huyết áp, suy tim, nhồi máu cơ tim, viêm loét dạ dày, giảm sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, gây vô sinh, giảm tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Đặc biệt, khi khả năng lọc của thận chỉ còn từ 5 - 10% thì thận đi vào giai đoạn cuối và cần phải lọc thận nhân tạo hoặc ghép thận để duy trì cuộc sống.


2.Làm sao để tránh suy thận khi bị sỏi thận
Để tránh bị biến chứng suy thận thì việc điều trị sớm, nhanh chóng, dứt điểm và đặc biệt phục hồi chức năng thận là rất quan trọng. Ngoài ra, sỏi thận còn hay bị tái đi tái lại nhiều lần mà mỗi lần bệnh tái phát thì nguy cơ bị suy thận lại tăng lên vì vậy trong điều trị cũng cần lưu ý đến việc phòng tránh tái phát bệnh.

Để đảm bảo các tiêu chuẩn điều trị trên thì trong các thuốc điều trị sỏi thận hiện nay có thuốc cốm Sirnakarang là đạt hiệu quả cao trong điều trị nhanh, dứt điểm, phòng ngừa tái phát và giúp phục hồi chức năng thận. Thuốc cốm Sirnakarang chứa cao Kim Tiền Thảo có tác dụng làm ngưng sự gia tăng kích thước của hòn sỏi, đồng thời nhanh chóng bào mòn sỏi theo cơ chế “nước chảy đá mòn”. Không những thế, Sirnakarang còn có tác dụng pha loãng dòng nước tiểu, lợi tiểu giúp tống nhanh viên sỏi ra ngoài. Vì vậy Sirnakarang điều trị khỏi bệnh sỏi thận một cách nhanh chóng.

Mặt khác, thuốc cốm Sirnakarang còn có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, giảm đau hiệu quả từ đó ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ gây ra suy thận giúp phòng tránh biến chứng này.

Thuốc cốm Sirnakarang có khả năng cân bằng lượng khoáng chất trong nước tiểu, kiểm soát tốt ngăn không cho các khoáng chất này phát triển vượt mức vì vậy có tác dụng trị bệnh sỏi thận dứt điểm, ngăn ngừa tái phát, không cho hình thành thêm các viên sỏi mới. Đối với những bệnh nhân sỏi thận sau khi phẫu thuật lấy sỏi hay tán sỏi,.. nên dùng thuốc cốm Sirnakarang để phòng ngừa bệnh tái đi tái lại nhiều lần.

Đặc biệt, thuốc cốm Sirnakarang có tác dụng phục hồi chức năng thận đã bị tổn thương do sỏi thận gây ra một cách hiệu quả từ đó ngăn chặn biến chứng suy thận và giúp người bệnh nhanh chóng phục hồi sức khỏe.

Từ nhiều năm nay, các thầy thuốc đã sử dụng Sirnakarang trong điều trị sỏi cho rất nhiều bệnh nhân. Hầu hết bệnh nhân sử dụng đều cho thấy hiệu quả điều trị rõ rệt sau một thời gian như: hết sỏi, không thấy hình thành sỏi mới, chức năng thận được phục hồi khỏe mạnh...

Sỏi thận không khó điều trị vì vậy hãy điều trị đúng cách sớm nhất có thể để hết sỏi và phục hồi chức năng thận, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm suy thận có thể xảy ra.



Xem chi tiết

Sỏi Thận Dễ Dẫn Đến Suy Thận

Sỏi thận là bệnh thường gặp, không khó chữa và ít nguy hiểm tuy nhiên sỏi thận lại là nguyên nhân hàng đầu gây ra suy thận - căn bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng tới nhiều chức năng của cơ thể và tính mạng bệnh nhân, suy thận giai đoạn cuối bệnh nhân thậm chí phải chạy thận nhân tạo để duy trì cuộc sống.
Vì vậy, khi bị sỏi thận bệnh nhân phải hết sức lưu ý để bệnh không gây ra biến chứng suy thận.
Tại sao sỏi thận lại gây ra suy thận
Sỏi thận hình thành là do sự tăng quá mức nồng độ các chất khoáng như canxi, oxalat, muối urat, natri, cystine hay phốt pho. Những chất này lắng đọng trong đài, bể thận và kết thành sỏi. Những viên nhỏ có thể tự ra ngoài theo nước tiểu mà không gây triệu chứng gì. Những viên lớn hơn có thể vẫn di chuyển được theo dòng nước tiểu nhưng gây đau đớn và chảy máu đường tiết niệu, hay mắc lại ở những chỗ hẹp của niệu quản, gây viêm tắc niệu quản, bí tiểu. Những viên có bề mặt xù xì, lởm chởm, sắc nhọn rất dễ làm tổn thương thận là điều kiện tốt cho vi khuẩn xâm nhập, gây viêm nhiễm đường tiểu. Người bệnh sẽ thấy đau lưng, đái buốt, đái dắt, đái đục. Khi sỏi xuất hiện ở hai bên thận kết hợp với đường tiểu bị viêm nhiễm nặng sẽ khiến chức năng thận bị suy giảm và dẫn đến suy thận.
Suy thận là trạng thái suy giảm chức năng của thận, bao gồm chức năng bài tiết lượng nước dư thừa trong cơ thể và bài tiết chất độc trong cơ thể do quá trình trao đổi chất gây ra, và kéo theo sự suy giảm chức năng sản xuất một vài hooc - môn do thận sinh ra. Suy thận ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe bệnh nhân như: gây ra các bệnh cao huyết áp, suy tim, nhồi máu cơ tim, viêm loét dạ dày, giảm sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục, gây vô sinh, giảm tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Đặc biệt, khi khả năng lọc của thận chỉ còn từ 5 - 10% thì thận đi vào giai đoạn cuối và cần phải lọc thận nhân tạo hoặc ghép thận để duy trì
Những bệnh nhân bị sỏi thận nếu không được chữa trị sớm và kịp thời sẽ có nguy cơ bị suy thận rất cao.
Làm sao để tránh suy thận khi bị sỏi thận
Để tránh bị biến chứng suy thận thì việc điều trị sớm, nhanh chóng, dứt điểm và đặc biệt phục hồi chức năng thận là rất quan trọng. Ngoài ra, sỏi thận còn hay bị tái đi tái lại nhiều lần mà mỗi lần bệnh tái phát thì nguy cơ bị suy thận lại tăng lên vì vậy trong điều trị cũng cần lưu ý đến việc phòng tránh tái phát bệnh.
Để đảm bảo các tiêu chuẩn điều trị trên thì trong các thuốc điều trị sỏi thận hiện nay có thuốc cốm Sirnakarang là đạt hiệu quả cao trong điều trị nhanh, dứt điểm, phòng ngừa tái phát và giúp phục hồi chức năng thận. Thuốc cốm Sirnakarang chứa cao Kim Tiền Thảo có tác dụng làm ngưng sự gia tăng kích thước của hòn sỏi, đồng thời nhanh chóng bào mòn sỏi theo cơ chế “nước chảy đá mòn”. Không những thế, Sirnakarang còn có tác dụng pha loãng dòng nước tiểu, lợi tiểu giúp tống nhanh viên sỏi ra ngoài. Vì vậy Sirnakarang điều trị khỏi bệnh sỏi thận một cách nhanh chóng.
Mặt khác, thuốc cốm Sirnakarang còn có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, giảm đau hiệu quả từ đó ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ gây ra suy thận giúp phòng tránh biến chứng này.
Thuốc cốm Sirnakarang có khả năng cân bằng lượng khoáng chất trong nước tiểu, kiểm soát tốt ngăn không cho các khoáng chất này phát triển vượt mức vì vậy có tác dụng trị bệnh sỏi thận dứt điểm, ngăn ngừa tái phát, không cho hình thành thêm các viên sỏi mới. Đối với những bệnh nhân sỏi thận sau khi phẫu thuật lấy sỏi hay tán sỏi,.. nên dùng thuốc cốm Sirnakarang để phòng ngừa bệnh tái đi tái.
Đặc biệt, thuốc cốm Sirnakarang có tác dụng phục hồi chức năng thận đã bị tổn thương do sỏi thận gây ra một cách hiệu quả từ đó ngăn chặn biến chứng suy thận và giúp người bệnh nhanh chóng phục hồi sức khỏe.
Từ nhiều năm nay, các thầy thuốc đã sử dụng Sirnakarang trong điều trị sỏi cho rất nhiều bệnh nhân. Hầu hết bệnh nhân sử dụng đều cho thấy hiệu quả điều trị rõ rệt sau một thời gian như: hết sỏi, không thấy hình thành sỏi mới, chức năng thận được phục hồi khỏe mạnh...
Sỏi thận không khó điều trị vì vậy hãy điều trị đúng cách sớm nhất có thể để hết sỏi và phục hồi chức năng thận, ngăn ngừa biến chứng nguy hiểm.
SIRNAKARANG
Điện thoại tư vấn: 043.990.6195 - 043.668.6226
Xem chi tiết

Thận đa nang là gì?


Thận đa nang là hậu quả của sự rối loạn cấu trúc có tính di truyền, làm cho phần lớn các nhu mô thận biến thành nang có chứa dịch, kích thước nang to-nhỏ không đều, nang làm cho 2 thận to dần lên và cũng không đều nhau, trọng lượng mỗi thận có thể trên 1kg. Quá trình diễn biến sẽ dẫn tới suy thận và một số trường hợp bị xơ gan (thể thận đa nang trẻ nhỏ).

Dựa vào phả hệ di truyền, dựa vào lâm sàng, cho đến nay bệnh thận đa nang được chia làm 2 thể:
- Thận đa nang người lớn: di truyền theo gen trội.
- Thận đa nang trẻ em: di truyền theo gen lặn.



I. Thận đa nang người lớn.
- Thận đa nang người lớn là bệnh di truyền theo gen trội (Autosomal dominant); là loại bệnh thận có nang, thường gặp nhất sau thận nang đơn. Thường phát hiện ở tuổi 30-40 với đặc trưng lâm sàng là thận to nhiều nang 2 bên, diễn biến đến suy thận. Tuổi thọ trung bình là 50.
- Cơ chế bệnh sinh:
Bệnh thận đa nang người lớn có tính di truyền theo gen trội. Do di truyền, một số các ống thận không biệt hoá được thành nephron đã thoái hoá biến thành nang, nhiều nang thận nối thông với ống góp và bể thận. Gần đây, một số tác giả lại cho rằng ống thận bị tắc một phần hoặc tắc hoàn toàn, kết hợp với sự mất đàn hồi của ống thận nên sinh đa nang. Rõ ràng cơ chế để tạo thành nang còn chưa được biết rõ.
Nhưng chính những lý do đó làm cho thận to ra gây cản trở hoạt động chức năng của thận do nang chèn ép vào nephron làm tổn thương thận dẫn đến rối loạn chức năng và suy thận.
- Triệu chứng:
Bệnh thường được phát hiện ở lứa tuổi 40, với các triệu chứng thường gặp:
+ Đau vùng hông-lưng hoặc sườn-lưng, hoặc có cơn đau quặn thận cấp (do sỏi hoặc chảy máu trong nang).
+ Tức bụng khó chịu do thận to dần lên gây chèn ép.
+ Đái ra máu do nhiễm khuẩn hay do chảy máu trong nang.
+ Đái đêm, khả năng do cô đặc nước tiểu giảm.
+ Gầy xanh do đái ra máu nhiều hoặc suy thận.
+ Thiểu niệu hay vô niệu khi có suy thận cấp tính hoặc mạn tính.

- Phòng bệnh và điều trị:
+ Phòng bệnh:
Điều quan trọng là phát hiện sớm để có biện pháp kéo dài đời sống bệnh nhân. Với những gia đình đã có người bị bệnh thận đa nang thì phải khám bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho tất cả các thành viên trong gia đình. Phải khám chuyên khoa thận và cho làm siêu âm, vì siêu âm phát hiện ra nang khi chưa có triệu chứng lâm sàng.
Khi đã phát hiện thận đa nang thì cần được khám định kỳ nhằm phát hiện kịp thời các biến chứng như: nhiễm khuẩn tiết niệu, sỏi, tăng huyết áp. Chú ý phát hiện nang gan và nang ở các cơ quan khác (lách, tụy, phổi, buồng trứng).
+ Điều trị:
Chủ yếu là điều trị các biến chứng. Việc chọc hút dịch nang hoặc cắt bỏ thận đa nang chỉ là những chỉ định cá biệt. Chống nhiễm khuẩn tiết niệu bằng kháng sinh thích hợp, tốt nhất là theo kháng sinh đồ. Không nên dùng các thuốc độc cho thận: colistin, polymicin, gentamycin, kanamicin, streptomycin, oxacyllin, tetraxyclin, sulphamid, phenylbutasol, pyrocecam...
Khống chế huyết áp dưới 140/90 mmHg bằng các nhóm thuốc điều trị tăng huyết áp, chống mất nước, điều chỉnh rối loạn điện giải khi cần thiết. Phải thận trọng khi dùng thuốc lợi tiểu trong thận đa nang. Nếu đái ra máu đại thể thì phải loại bỏ các nguyên nhân do sỏi thận-tiết niệu và các nguyên nhân khác gây đái ra máu. Khi có suy thận phải có chế độ ăn, sinh hoạt theo chế độ suy thận và điều trị bảo tồn bằng phương pháp nội khoa nói chung. Nếu suy thận giai đoạn cuối thì phải điều trị bằng phương pháp thay thế thận: lọc máu chu kỳ hoặc ghép thận.

I.Thận đa nang trẻ em.
- Bệnh thận đa nang trẻ em rất hiếm gặp.
- Thận đa nang trẻ em là bệnh di truyền theo gen lặn (autosomal recessive), tuy nhiên cho đến nay thì gen di truyền bệnh lý chưa được xác định rõ ràng. Bệnh thường phát hiện sớm ngay sau đẻ ở tuổi sơ sinh hoặc trước 10 tuổi, ít khi trẻ sống được đến tuổi thành niên.
Thận đa nang trẻ em được chia thành 2 nhóm:
. Thận đa nang sơ sinh.
. Thận đa nang trẻ em.
1.Thận đa nang sơ sinh:
- Thường khi đẻ ra, trẻ đã có hai thận to, đó là nguyên nhân gây đẻ khó. Hai thận suy ngay sau đẻ và trẻ tử vong ngay trong tuần đầu.
- Về giải phẫu bệnh: ống lượn xa, ống góp bị giãn đổ vào những nang bị kéo dài, những nang này được sắp xếp theo hình nan hoa, đặc biệt là ở trong vỏ thận làm cho thận to ra và xốp. 
2. Thận đa nang trẻ em:
- Được phát hiện trước 10 tuổi. Thể này thường có bệnh lý về gan nặng hơn thận. Gan xơ hoá gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa là bệnh cảnh lâm sàng nổi trội, làm bệnh nhân tử vong. Nhiều trường hợp tử vong ngay cả trước khi có suy thận.
- Về giải phẫu bệnh: thận đa nang trẻ em có số lượng nang ít hơn nên thận không to như thận đa nang sơ sinh.
Thận to cả hai bên, nhưng mặt thận trơn nhẵn, không gồ ghề như thận đa nang người lớn.
Vi thể: ngoài các hình ảnh tổn thương thận như bệnh thận đa nang ở trẻ sơ sinh, còn có biểu hiện đường mật nhỏ trong gan giãn ra và tăng sinh không đồng đều, những khoảng trung gian được lát bởi lớp thượng bì bị quá sản lấp đầy các khoảng cửa, xơ hoá khoảng cửa làm tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
- Thận đa nang trẻ em rất khó phân biệt với thận có nang bẩm sinh, thường không có tính chất gia đình và nang thận thường chỉ một bên thận.
3. Chẩn đoán và điều trị:
- Siêu âm là biện pháp hữu hiệu nhất để phát hiện bệnh thận đa nang sơ sinh và thận đa nang trẻ em. Đối với thận đa nang sơ sinh, siêu âm còn có thể phát hiện ngay cả trong thời kỳ bào thai, tuy nhiên ngay ở các trung tâm thận học có kinh nghiệm kết quả cũng chỉ đạt 50%.
- Chụp thận thuốc tĩnh mạch có thể phát hiện bệnh thận đa nang trẻ em. Những thể điển hình thấy những vết hoặc đốm đọng chất cản quang ở mức độ khác nhau trong các nang tương ứng với những ống góp ở vỏ, tủy thận bị giãn. 
- Các biểu hiện lâm sàng:
. Bệnh thận đa nang sơ sinh thường gây đẻ khó vì thận to và tử vong ngay sau đó một tuần do thận không hoạt động gây thiểu niệu, suy thận, tăng huyết áp và suy tim ứ trệ.
. Bệnh thận đa nang trẻ em, thận to ít hơn, nhưng nổi trội là xơ gan tăng áp lực tĩnh mạch cửa và phần lớn tử vong do nguyên nhân này (có các xét nghiệm của bệnh lý gan mật kèm theo).
- Về điều trị: chủ yếu điều trị triệu chứng và các biến chứng của bệnh đối với gan và thận; nhưng nói chung tiên lượng nặng vì bệnh nhân tử vong quá sớm.

Tag: sỏi thận, trị sỏi thận, triệu chứng bệnh sỏi thận

thuoc chua benh soi than
Xem chi tiết

Suy thận giai đoạn cuối: ngày càng phố biến và nghiêm trọng

Theo Bộ Y tế, hiện nước ta có gần 7 triệu người bị suy thận, trong đó gần 20% đã chuyển sang giai đoạn cuối, hơn 1.000 trường hợp ghép thận trong nước và hàng trăm trường hợp “lén lút” mua thận ra nước ngoài ghép. Tuy nhiên, ghép thận chỉ là lựa chọn kiểu “còn nước còn tát”, trong khi theo các chuyên gia thận - niệu, việc chủ động phòng ngừa mới là quan trọng.




Quá tải chạy thận nhân tạo

Với chẩn đoán bị suy thận mạn giai đoạn cuối từ hơn 2 năm qua, bà N.T.P. (60 tuổi, ngụ quận 2) trở thành “khách hàng thân thiết” của Bệnh viện Quận 2 (TPHCM). Mỗi tuần, bà P. đều đặn 2 lần đến bệnh viện để được vô hóa chất lọc máu chạy thận nhân tạo. Từ một phụ nữ tần tảo bán hàng ở chợ đầu mối quận Thủ Đức, ít khi đau ốm và gần như không chú ý đến khám bệnh định kỳ, nhưng bỗng một ngày hoa mắt, đột ngột ngất xỉu, bà P. đến bệnh viện khám thì phát hiện huyết áp cao, thận suy nặng. “Bỏ ăn bỏ làm, sức khỏe sa sút. Bây giờ chỉ mỗi loanh quanh ở nhà và đến ngày lại vô bệnh viện”, bà P. than thở…

Theo bác sĩ Trần Văn Khanh, Giám đốc Bệnh viện Quận 2, dù khoa chạy thận nhân tạo mới triển khai được 2 năm nay với 15 máy nhưng đã quá tải, có khi phải chạy 3 ca/ngày mới giải quyết hết bệnh nhân. Trong khi đó, với thâm niên hình thành nhiều năm qua, đơn vị thận nhân tạo của các bệnh viện Gia Định, 115 hay Bệnh viện Chợ Rẫy đã quá tải nghiêm trọng. Số bệnh nhân suy thận được khám và điều trị tại các bệnh viện cũng không ngừng tăng lên trong các năm qua. Theo số liệu từ Khoa Tiết niệu của Bệnh viện Chợ Rẫy, ngoài số bệnh nhân suy thận thể nhẹ điều trị ngoại trú, hiện trong khoa chạy thận nhân tạo và các cơ sở liên quan khác của bệnh viện phục vụ cho gần 10.000 bệnh nhân bị suy thận nặng, giai đoạn cuối. Thậm chí để đáp ứng điều trị, bệnh viện phải chia ra 4 ca để chạy thận nhân tạo, mỗi ca từ 3 - 4 tiếng đồng hồ.

Nếu như cách đây 10 năm, TPHCM chỉ có khoảng vài ba chục máy chạy thận nhân tạo phục vụ vài trăm bệnh nhân bị suy thận mạn, thì đến nay toàn thành phố đã có tới gần 1.000 máy và số bệnh nhân cũng đã lên con số nhiều ngàn người. Tuy nhiên, theo các chuyên gia y tế, số bệnh nhân thực tế còn cao hơn nhiều và có xu hướng ngày càng tăng. Hiện các kỹ thuật điều trị suy thận mạn cũng được áp dụng tích cực, nhưng xem ra chỉ vẫn là giải pháp hỗ trợ bệnh nhân sống chung với… bệnh.

Cần sớm phòng ngừa

Theo các bác sĩ chuyên khoa Thận - Niệu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến suy thận, nhưng các trường hợp phổ biến là mắc bệnh lý về viêm cầu thận. Theo GS-TS Trần Ngọc Sinh, Hội Niệu - Thận học TPHCM, nhiều nguyên nhân dẫn đến suy thận và nếu không có những biện pháp điều trị kịp thời, có thể bị suy thận mạn giai đoạn cuối, trong đó cao huyết áp, tiểu đường và các bệnh lý về cầu thận vẫn là những nguy cơ chính.

Bên cạnh chạy thận nhân tạo, hiện một số bệnh viện cũng đã áp dụng phương pháp thẩm phân phúc mạc (mổ ổ bụng và đặt ống dẫn giữa lá tạng và lá thành của màng bụng để đưa dịch vào trao đổi điện giải, lọc bỏ chất độc) trong điều trị suy thận mạn. Theo BS Tạ Phương Dung, Trưởng khoa Thận - Niệu Bệnh viện Nhân dân 115, phương pháp này khá thích hợp cho suy thận mạn giai đoạn đầu. Phương pháp tối ưu được các chuyên gia y tế khuyến nghị cho điều trị suy thận mạn giai đoạn cuối vẫn là ghép thận. Nhưng khó khăn nhất hiện nay là không có nguồn thận.

Trước thực trạng trên, các chuyên gia y tế nhìn nhận công tác dự phòng có vai trò quan trọng để giảm tỷ lệ người mắc suy thận mạn cũng như kéo dài sự sống khi mắc phải. Các chuyên gia thận - niệu khuyến cáo một số dấu hiệu của suy thận mạn là: tăng tiểu tiện (đặc biệt vào ban đêm); giảm đi tiểu; xuất hiện máu trong nước tiểu (hiếm gặp); nước tiểu đục hoặc màu trà… cần được thăm khám. Bên cạnh đó có các triệu chứng khác không được rõ ràng, nhưng có thể cũng là kết quả trực tiếp của tình trạng thận không có khả năng loại bỏ chất thải và chất lỏng dư thừa ra khỏi cơ thể như: sưng húp hai bên mắt, phù nề tay, chân, huyết áp cao, mệt mỏi, khó thở, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn và nôn (đây là một triệu chứng phổ biến), khát, hôi miệng hoặc hơi thở, giảm cân, ngứa, co giật cơ hoặc chuột rút, da màu vàng nâu…

Xem chi tiết

Suy thận mạn tính: Nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần người bình thường

Đây là thông tin được PGS-TS-BS Phạm Văn Bùi - Tổng Thư ký Hội Niệu-Thận học TPHCM - đưa ra tại Hội thảo khoa học: Chiến lược điều trị suy thận mạn tính được tổ chức vào sáng ngày 3.7 tại TPHCM.

Tính đến nay, tại VN, số người mắc suy thận mạn tính ước tính lên đến con số 8 triệu người.
Cũng theo PGS-TS Phạm Văn Bùi cho biết, tại VN, số bệnh nhân suy thận mạn tính đang gia tăng nhanh cùng với tốc độ gia tăng của một số bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, viêm cầu thận, thiếu máu...
Suy thận mạn tính là một tổn thương không phục hồi của các đơn vị thận, làm mất dần chức năng thận. Bệnh không thể chữa khỏi và thường diễn tiến âm thầm. Người bị suy thận mạn tính sẽ tăng 34% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim và đột quỵ, đồng thời có nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần so với người bình thường.
Triệu chứng của suy thận có thể chỉ xuất hiện khi chức năng thận còn lại 1/10 so với mức bình thường. Do đó, phát hiện sớm suy thận có ý nghĩa lớn trong việc phòng ngừa bệnh tiến triển sang giai đoạn nặng hơn. Biểu hiện đặc trưng của bệnh như: Sưng phù, mệt mỏi, xanh xao, đau đầu, chán ăn, buồn nôn, tiểu nhiều lần, tăng creatinin huyết hoặc protein niệu...
Nguyên nhân gây bệnh như: 40% do đái tháo đường, 30% do tăng huyết áp, 10% do viêm cầu thận, ngoài ra còn do sỏi thận, lupus ban đỏ, thận bẩm sinh, suy tim và cũng có thể là hậu quả của việc dùng lâu dài thuốc gây độc tính cao với thận.
Do đó, việc phát hiện sớm để điều trị sẽ làm chậm diễn tiến của bệnh, bảo vệ, cải thiện chức năng thận, chậm tiến trình suy thận, giảm nhu cầu chạy thận trong xã hội. Theo PGS- TS Nguyễn Thị Bay - Trưởng khoa nội Y học cổ truyền BV ĐH Y Dược TPHCM: Để làm chậm tiến triển của suy thận mạn tính cần có chế độ ăn hạn chế đạm, ít muối, kiểm soát tốt huyết áp, ngăn chặn các yếu tố thúc đẩy tiến triển bệnh như thuốc lá, dùng thuốc và dược chất không hợp lý, tăng acid urid, RP lipid máu, tiểu đường, có thai...
Người dân có thể phát hiện bệnh sớm với các triệu chứng như phù (chân, xung quanh mắt), mệt mỏi, xanh xao, đau đầu, buồn nôn (do thiếu máu và tích lũy chất cặn bã trong cơ thể), đi tiểu thường xuyên (đặc biệt là về đêm), tăng creatinin huyết hoặc protein niệu, tăng huyết áp, tăng kali máu, giảm erythropoietin, nhiễm nitơ và urê máu, đau lưng...
Theo các chuyên gia về thận tiết niệu, chế độ ăn uống giúp hạn chế tối đa nguy cơ mắc bệnh này như: Không nên ăn quá nhiều những thức ăn chứa nhiều canxi như nghêu, sò, tôm, cua... vì canxi có thể kết tinh thành sỏi thận.
Những thức ăn có nhiều acid oxalic cũng nên hạn chế (chất này có trong rau dền, rau muống, cải bó xôi...). Đặc biệt, ăn mặn sẽ dẫn tới cơ thể hấp thu nhiều muối, làm rối loạn cân bằng nước trong cơ thể. Đối với những người cao huyết áp, lại càng không nên ăn quá mặn, bởi huyết áp cao sẽ làm tổn thương các mạch máu, ngăn cản mạch máu loại trừ các chất cặn bã.
Uống nhiều nước là biện pháp hiệu quả để giúp thận lọc chất độc, cặn bã có thể tạo thành sỏi thận ra ngoài tốt hơn. Bác sĩ cũng khuyến cáo, không nên thấy khát mới uống nước, mỗi ngày một người nên uống ít nhất từ 1,5 - 2 lít nước đã được nấu chín. Ngoài ra, không nên dùng nhiều thức uống lợi tiểu như trà, cà phê vì có nguy cơ làm mệt thận, tạo sỏi thận.

Xem chi tiết

Ngay tết, bị suy thận nên chú ý gì?

Trong dịp lễ tết, ẩm thực là vấn đề quan trọng hàng đầu với những bữa ăn thịnh soạn, gia tăng rất nhiều lần so với ngày thường cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, việc “quá tải” trong ăn uống gần như là điều rất khó tránh khỏi và đây là điều mà người bị suy thận mạn phải đặc biệt tránh…

Kiểm soát lượng nước vào cơ thể
Luôn có nguy cơ thừa nước đối với người suy thận sau những ngày Tết “vui vẻ” do ăn thức ăn chứa nhiều nước như súp, canh, cháo, các loại quả như dưa hấu, lê, táo... cũng như uống quá nhiều bia hoặc các loại nước ngọt. Ở người bình thường, lượng nước vào cơ thể từ các nguồn thức ăn, nước uống khoảng 3.000ml và mất đi một lượng tương đương chủ yếu qua nước tiểu (khoảng 2.000ml) và một phần nhỏ qua mồ hôi, phân, hơi thở. Khi thận bị suy, chức năng thanh thải nước tự do hay khả năng tạo nước tiểu không còn. Bệnh nhân cứ 3 - 4 ngày phải chạy thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng hàng ngày để loại bỏ lượng nước thừa đưa vào cơ thể qua con đường ăn uống. Lượng nước dư thừa là nguyên nhân góp phần làm tăng huyết áp, chứng khó thở do phù phổi cấp và phù dưới da (tay, chân, mặt...) cũng như tràn dịch các khoang màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim... ở người suy thận mạn. Như vậy, trong những ngày Tết, bệnh nhân suy thận mạn cần đặc biệt chú ý đến việc kiểm soát lượng nước vào cơ thể bằng các biện pháp như uống nước vừa đủ, tránh uống nhiều bia rượu hoặc nước hoa quả, nước ngọt, ăn nhạt để hạn chế uống nước, cân hàng ngày để đánh giá đúng lượng nước thừa.


Hạn chế thức ăn nhiều đạm
Trong mâm cỗ ngày Tết luôn có những món ăn chứa hàm lượng đạm rất cao như giò, mọc, thịt gà, thịt bò, cá, trứng... Những món ăn này là “thủ phạm” hàng đầu của việc tăng các chất như ure và creatinin sau khi được chuyển hóa và hấp thu. Ure và creatinin tăng nhanh trong máu sẽ gây độc cho cơ thể. Tăng ure máu quá cao và nhanh sẽ có nguy cơ bị hội chứng ure huyết cao với các triệu chứng như đau đầu, nôn, xuất huyết tiêu hóa, tiêu chảy... Lượng creatinin cao trong máu cũng cần loại bỏ nhanh bằng lọc máu nhân tạo (thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng), vì vậy cần tránh tăng chất này bằng việc hạn chế ăn những món nói trên cho dù có ngon đến mấy.


Hạn chế thức ăn chứa nhiều muối
Thực phẩm trong những ngày lễ Tết luôn tiềm ẩn một nguy cơ: chứa nhiều muối mà người ăn rất khó nhận ra do độ mặn đã bị giảm bởi các loại gia vị khác. Thận suy đã mất khả năng thải trừ muối qua nước tiểu nên khi bệnh nhân ăn nhiều muối sẽ tích nước gây phù, làm huyết áp tăng, phù phổi cấp, thậm chí có thể có triệu chứng của hội chứng tăng natri máu như đau đầu, nôn, dấu hiệu mất nước và nặng hơn có thể hôn mê và tử vong. Mặt khác, khi ăn mặn, bệnh nhân sẽ phải uống nhiều nước và điều này làm dư thừa lượng nước trong cơ thể quá nhanh và phải chạy thận nhân tạo nhiều lần hơn. Vì vậy, trong dịp lễ Tết, bệnh nhân suy thận mạn vẫn phải chú ý ăn nhạt với lượng muối dưới 1,5g/ngày. Tránh các thức ăn có chứa hàm lượng muối cao như đã mô tả ở trên.


Tránh các thức ăn chứa nhiều kali
Tăng kali máu luôn là một biến chứng nguy hiểm hàng đầu ở những bệnh nhân suy thận mạn phải lọc máu chu kỳ. Bình thường, lượng kali trong máu dao động trong khoảng từ 3,5 - 4,5mmol/l và được thận điều chỉnh đào thải ra ngoài rất nhanh qua nước tiểu nếu lượng kali từ thức ăn đưa vào quá nhiều. Ở người suy thận giai đoạn cuối, chức năng đào thải kali của thận gần như bằng không nên nguy cơ tăng kali máu luôn luôn hiện hữu và khi kali máu tăng cao, bệnh nhân có thể tử vong do loạn nhịp tim. Các thức ăn nhiều kali bao gồm các loại quả như chuối, đu đủ và một số loại thực phẩm đóng hộp. Một số loại sữa cũng có ghi rõ lượng kali trên nhãn mác và người bị suy thận có thể tham khảo trước khi dùng.

Hạn chế các thức ăn có nhiều phospho
Thức ăn chứa nhiều phospho là các loại sản phẩm sữa, đậu, ngũ cốc nguyên hạt (ngũ cốc chưa xay giã kỹ như gạo lứt), coca cola, bia. Thức ăn chứa nhiều phospho làm tăng lượng phospho trong máu ở người suy thận giai đoạn cuối do thận đã mất khả năng đào thải phospho. Khi lượng phospho tăng cao sẽ làm bệnh nhân mệt mỏi, chướng bụng đầy hơi và về lâu dài có thể là nguyên nhân gây mất canxi và gây loãng xương.
 Gạo lứt

Không nên uống bia rượu
Có thể nói bia rượu là những đồ uống “không thể thiếu” trong dịp Tết nhưng đối với người suy thận mạn, bia rượu lại tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy cơ như làm thừa nước, tăng thể tích tuần hoàn gây cơn tăng huyết áp (một bệnh luôn có ở người suy thận mạn), làm tăng nguy cơ đột quỵ não, đột quị tim... Vì vậy, tốt nhất người bị suy thận mạn không nên uống bia rượu.    

Tag: suy thận, suythan, 




thuoc chua benh soi than
Xem chi tiết

Hẹp động mạch thận


Hẹp động mạch thận là bệnh lý do thu hẹp của một hoặc cả hai động mạch thận. Hậu quả là thận bị giảm tưới máu, có thể làm tăng huyết áp và tổn thương nhu mô thận.
Nghiên cứu cho biết khoảng 90% bệnh nhân hẹp động mạch thận là do xơ vữa động mạch gây tắc, hẹp và xơ cứng động mạch thận. Bệnh tiến triển khi có mảng bám chất dính tạo thành bởi chất béo, cholesterol, canxi và các chất khác được tìm thấy trong máu, tạo thành nút hẹp bên trong của một hoặc cả hai động mạch thận. Do tích tụ mảng bám làm cho thành động mạch thận bị cứng và hẹp. Chứng loạn sản sợi cơ gây ra sự phát triển không bình thường hoặc tăng trưởng của các tế bào trên thành động mạch thận cũng có thể gây ra hẹp mạch máu thận.
 Hai dạng thường gặp nhất của hẹp động mạch thận là loạn sản cơ sợi và xơ vữa động mạch. Nguyên nhân do viêm mạch máu và bẩm sinh rất hiếm gặp. Loạn sản cơ sợi gây hẹp động mạch thận ít gặp và chưa rõ nguyên nhân. Bệnh xảy ra ở phụ nữ dưới 30 tuổi và ảnh hưởng đến các động mạch thận, động mạch cảnh và động mạch đùi. Hẹp động mạch thận 1 hay cả 2 bên trong loạn sản cơ sợi thường gây tăng huyết áp nhưng ít khi gây suy thận. Trái lại, hẹp động mạch thận do xơ vữa động mạch ít khi gây tăng huyết áp nhưng lại gây suy thận.




Biểu hiện của hẹp động mạch thận
Đa số bệnh nhân bị hẹp động mạch thận không có triệu chứng cho đến khi bệnh tiến triển nặng. Các dấu hiệu của bệnh hẹp động mạch thận thường gặp là: tăng huyết áp, suy giảm chức năng thận hoặc cả hai triệu chứng này. Nhưng thật không may là bệnh thường bị bỏ qua. Hẹp động mạch thận được xem là một nguyên nhân gây tăng huyết áp ở các đối tượng sau đây: trên 50 tuổi và có tiền căn tăng huyết áp; không điều trị thành công với ít nhất ba hoặc nhiều hơn các loại thuốc điều trị huyết áp. Các triệu chứng suy giảm chức năng thận bao gồm: tăng hoặc giảm nước tiểu so với bình thường; phù nề, gây sưng ở chân, bàn chân hoặc mắt cá chân, nhưng ít phù thường xuyên ở tay hay mặt; buồn ngủ hoặc mệt mỏi; ngứa hoặc bị tê; da khô; hay đau đầu; sút cân; mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, nôn; khó ngủ, khó  tập trung; hay bị chuột rút (vọp bẻ).
Những người có nguy cơ bị bệnh hẹp động mạch thận gồm:
Cholesterol trong máu cao; tăng huyết áp; hút thuốc lá, thuốc lào; đề kháng insulin; bị bệnh đái tháo đường; thừa cân hoặc béo phì; ít hoạt động thể chất; chế độ ăn uống nhiều chất béo, cholesterol; ăn mặn và ăn ngọt nhiều; nam trên 45 tuổi và nữ trên 55 tuổi...
Thiếu máu thận gây suy thận cấp với các biểu hiện: tăng creatinine máu trong vòng 14 ngày sau khi dùng thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể angiotensin, đây là triệu chứng chỉ điểm của bệnh hẹp động mạch thận hai bên, nhưng nó không có độ đặc hiệu cao. Những biểu hiện khác như suy thận mạn không rõ nguyên nhân, teo thận, khác biệt lớn kích thước giữa hai thận.
Chẩn đoán hẹp động mạch thận bằng cách nghe âm thổi ở bụng: khi máu chảy qua động mạch hẹp, có thể gây ra tiếng thổi; có thể đặt một ống nghe ở mặt trước hoặc phía bên của bụng để nghe được âm thanh này. Tuy nhiên, nếu không nghe thấy tiếng thổi vẫn không loại trừ khả năng bị hẹp động mạch thận. Chẩn đoán hình ảnh: chụp mạch vành dùng thuốc cản quang; chụp Xquang thấy hẹp động mạch thận. Siêu âm duple, ống thông chụp mạch, chụp cắt lớp vi tính mạch máu, chụp mạch cộng hưởng từ đều có thể thấy tổn thương hẹp động mạch thận. Một số trường hợp, hẹp động mạch thận được phát hiện khi khám bệnh khác, chẳng hạn chụp mạch vành để chẩn đoán các vấn đề về tim...
Biến chứng có thể gặp
Bệnh nhân bị hẹp động mạch thận có nguy cơ biến chứng do mất chức năng thận hoặc xơ vữa động mạch xảy ra trong các mạch máu khác, như bệnh thận mạn tính;bệnh động mạch vành; đột quỵ não do thiếu lưu lượng máu đến não; bệnh tắc nghẽn mạch máu ngoại biên làm hạn chế dòng chảy của máu từ tim đến các bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt là ở chi dưới. Suy thận, được xem như giai đoạn cuối khi điều trị bằng phương pháp chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận...
Điều trị thế nào?
Điều trị hẹp động mạch thận bao gồm thay đổi lối sống, điều trị nội khoa và phẫu thuật nhằm mục đích: ngăn chặn hẹp động mạch thận tiến triển nặng; điều trị suy thận mạn; giảm tắc nghẽn động mạch thận.
Thay đổi lối sống: nhằm cải thiện các mạch máu khỏe mạnh khắp cơ thể, trong đó có động mạch thận. Cách tốt nhất là tập thể dục để duy trì cơ thể khỏe mạnh, cân đối. Lựa chọn thực phẩm lành mạnh hợp lý. Những người hút thuốc nên bỏ thuốc lá, thuốc lào để bảo vệ thận và cơ quan nội tạng.
Điều trị nội khoa: thuốc có thể dùng là các thuốc hạ áp huyết, thuốc ức chế men chuyển angiotensin, thuốc chẹn thụ thể angiotensin... có hiệu quả trong việc làm chậm sự tiến triển của bệnh thận; thuốc lợi tiểu; thuốc chẹn beta, thuốc chẹn kênh calci, thuốc hạ huyết áp khác. Thuốc làm giảm cholesterol để ngăn ngừa mảng bám tích tụ trong động mạch; thuốc aspirin, giúp máu lưu thông dễ dàng hơn trong các động mạch.
Phẫu thuật: nong mạch vành là một thủ thuật dùng ống thông đưa vào động mạch thận, thường là ở háng. Một quả bóng nhỏ ở đầu ống thông được thổi phồng để san bằng các mảng bám vào thành động mạch. Đặt ống stent bên trong động mạch để cải thiện sự lưu thông máu. 
ThS. Trần Tất Thắng




thuoc chua benh soi than
Xem chi tiết